Bản án 361/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 361/2018/HS-ST NGÀY 20/11/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khaivụ án hình sự thụ lý số 320/2018/TLST- HS ngày 10 tháng 10 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 362/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng11năm 2018 đối với bị cáo:

Phạm Ngọc N, sinh năm 1997 tại tỉnh Thái Bình; Thường trú: Thôn, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; con ông Phạm Văn B, sinh năm 1970 và bà Hà Thị V, sinh năm 1969; có 01 chị ruột, sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam ngày 17/4/2018, có mặt tại phiên tòa.

- Người làm chứng: Nguyễn Ngọc Tấn L, sinh năm 2001; địa chỉ: Thôn 8, xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước.

Người giám hộ của Nguyễn Ngọc Tấn L: Bà Võ Kim T, sinh năm 1970; địa chỉ: Thôn 8, xã N, huyện B, tỉnh Bình Phước; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 15/04/2018 tại tiệm Internet Bibip10 thuộc khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, Phạm Ngọc N nhặt được 01 gói ma túy đá, N đem cất giấu trong người. Đến tối ngày 16/04/2018, N lấy gói ma túy đá ra cùng Nguyễn Ngọc Tấn L sử dụng hết 01 phần. Số còn lại N chia thành 02 gói nhỏ đựng trong bịch nylon và bỏ vào quai túi xách rồi N đem cất giấu.

Khoảng 15 giờ ngày 17/04/2018, L đang đi bộ trên đường thuộc khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương thì gặp N. N rủ L đến dãy nhà trọ địa chỉ 36/60, khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tìm anh H bạn của N. Khi N và L đang đứng chờ anh H thì bị lực lượng Công an phường An Bình, thị xã Dĩ An nghi vấn N và L có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy nên yêu cầu giao nộp. L lấy trong nón của L đang đội ra 01 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng giao nộp. L khai nhận gói ma túy trên L mua từ ngày 15/4/2018 luôn cất ma túy trong người nhằm mục đích sử dụng. Tại trụ sở Công an phường An Bình, N lấy từ túi xách mang bên mình ra 02 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng N khai là ma túy đá, Công an phường An Bình lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang.

Vật chứng thu giữ: 02 gói nilon hàn kín chứa tinh thể màu trắng thu của Phạm Ngọc N; 01 gói nilon hàn kín thu giữ của Nguyễn Ngọc Tấn L.

Tại bản kết luận giám định số 238 ngày 24/04/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 02 gói nilon hàn kín thu giữ của Phạm Ngọc N là ma túy loại Methamphetamine trọng lượng 0,1932 gam.

Tại bản kết luận giám định số 239 ngày 24/04/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 01 gói nilon hàn kín thu giữ của Nguyễn Ngọc Tấn L là ma túy loại Methamphetamine trọng lượng 0,0671 gam.

Đối với Nguyễn Ngọc Tấn L quá trình điều tra xác định không đủ căn cứ chứng minh đồng phạm với Phạm Ngọc N. Số ma túy của L tàng trữ không đủ định lượng xử lý hình sự.

Tại cáo trạng số 323/CT–VKS ngày 08 tháng 10 năm 2018, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Phạm Ngọc N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Phạm Ngọc N mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,03 gam Methamphetamine; 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,1433 gam Methamphetamine mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người làm chứng cũng không khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Phạm Ngọc N là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy, loại ma túy đá N dùng là chất Methamphetamine. Vào khoảng 15 giờ ngày 17/04/2018 khi N và L đến dãy nhà trọ địa chỉ 36/60, khu phố Bình Đường 4, phường An Bình, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương tìm anh H bạn của N thì bị lực lượng Công an phường An Bình, thị xã Dĩ An nghi vấn nên kiểm tra phát hiện L cất giấu 01 gói ma túy hàn kín chứa Methamphetamine, trọng lượng 0,0671 gam, N cất giấu 02 gói nilon hàn kín chứa chất Methamphetamine, trọng lượng 0,1932 gam. Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ”.......

c) Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; “.......

Hành vi của bị cáo Phạm Ngọc N tàng trữ 02 gói ma túy, có chất Methamphetamine, trọng lượng 0,1932 gam để sử dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 323/CT–VKS ngày 08 tháng 10 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo được xem xét khi quyết định hình phạt: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, áp dụng để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người lao động nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,03 gam, chất Methamphetamine; 01 (một) bì thư đã niêm phong bên trong có chứa 0,1433 gam, chất Methamphetamine là vật cấm lưu thông, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Đối với Nguyễn Ngọc Tấn L, số ma túy của Lộc tàng trữ không đủ định lượng xử lý hình sự.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/4/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 bỳ thư niêm phong số 238/PC54 chứa chất Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 0,1433 gam; 01 bỳ thư niêm phong số 239/PC54 chứa chất Methamphetamine, trọng lượng sau giám định là 0,03 gam. (Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/10/2018, bút lục 95).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hộiquy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Phạm Ngọc N phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 361/2018/HS-ST ngày 20/11/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:361/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/11/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;