Bản án 352/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 tội trộm cắp tài sản 

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 352/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN 

Ngày 29 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 361/2019/TLST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 366/2019/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Võ Thanh T, sinh năm 1982 tại tỉnh Đồng Nai; thường trú: K3/295C khu phố M, phường B H, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn B (đã chết) và bà Nguyễn Thị Ng (đã chết); bị cáo có 07 anh chị ruột, lớn nhất sinh năm không rõ, nhỏ nhỏ nhất sinh năm không rõ, bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Phương Lan, sinh năm 1981,  có 01 con ruột, sinh năm 2002; tiền án: Không;

Tiền sự:

- Ngày 06/3/2008, bị Công an thành phố B H, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính  200.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

- Ngày 04/5/2016, bị Công an thành phố B H, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính  750.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

- Ngày 10/6/2016, bị Công an thành phố B H, tỉnh Đồng Nai xử phạt hành chính  200.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

Nhân thân:

- Ngày 01/7/2007, bị UBND thành phố B H, tỉnh Đồng Nai ra Quyết định đưa vào cơ sở chửa bệnh bắt buộc thời hạn 24 tháng do sử dụng trái phép chất ma túy;

- Ngày 24/10/2011, bị Tòa án nhân dân thành phố B H, tỉnh Đồng Nai xử phạt 08 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số:  581/2011/HSST, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/02/2012;

- Ngày 06/8/2012, bị Công an thành phố B H ra Quyết định đưa đi cai nghiện bắt buộc với thời gian 24 tháng tại Trung tâm cai nghiện X Ph, tỉnh Đồng Nai.

- Ngày 27/8/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố B H, tỉnh Đồng Nai xử phạt 09 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, theo Bản án hình sự sơ thẩm số: 644/2016/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/5/2017;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/7/2019 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Bà Đặng Hồng Ch, sinh năm 1985; thường trú: Ấp C R A, xã Ph H, huyện C N, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Số 73/2 khu phố Tr Th, phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

* Người thạm gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Việt H, sinh năm 1977; vắng mặt.

2. Ông Nguyễn Minh Bửu S, sinh năm 1969; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 23/7/2019, Trần Võ Thanh T điều khiển xe mô tô hiệu Dream, biển số 60N3-6140 từ nhà tại địa chỉ K3/295C khu phố M, phường B H, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai đến khu phố Tr Th, phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương để tìm bạn tên H1. Đến 07 giờ sáng cùng ngày, T đến nhà trọ số 73/2 khu phố Tr Th, phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, T dựng xe mô tô trước nhà trọ rồi đi bộ vào dãy trọ khi đến phòng số N của dãy trọ thì gặp ông Trần Việt H, T hỏi ông H “có phải phòng anh H1 không”, ông H trả lời là “không phải”, T tiếp tục đi đến phòng số 7 của bà Đặng Hồng Ch, thấy cửa phòng khép hờ, T nhìn vào bên trong thấy trên bàn ngay cạnh cửa phòng trọ có để 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S và một điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J6+. T quan sát không thấy người nên đi đến sát cạnh cửa phòng rồi dùng tay phải lấy 01 điện thoại di động hiệu Oppo F1S và một điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J6+ bỏ vào túi áo khoác bên trái của T đang mặt. Lúc này ông Trần Việt H (em rể của bà Ch) quan sát camera qua điện thoại thì phát hiện T lấy trộm điện thoại của bà Ch nên truy hô và cùng với ông Nguyễn Bửu S bắt giữ T cùng tang vật giao cho Công an phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo F1S, 01 (một) một  điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J6+ và 01 (một) xe mô tô hiệu Dream, biển số  60N3-6140.

Căn cứ Kết luận định giá số: 165/BB.ĐG ngày 26/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Dĩ An kết luận: 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu vàng có trị giá 2.300.000 đồng và 01 (một) một điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J6+ màu đỏ có trị giá 3.400.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt 5.700.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và các bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số: 165/BB.ĐG ngày 26/7/2019 của Hội đồng định giá tài sản thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Tại Cáo trạng số: 382/CT-VKS-DA ngày 15 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Trần Võ Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm  2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Võ Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trần Võ Thanh Tú từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Đặng Hồng Ch đã nhận lại các tài sản bị chiếm đoạt, không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) xe mô tô, biển số 60N3-6140 của Trần Võ Thanh T sử dụng vào việc phạm, T khai nhận mua của người đi đường không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng không có ai đến nhận nên đề nghị tich thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01(một) điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu vàng và 01 (một) một điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J6+ màu đỏ đã thu hồi trả lại cho bị hại Đặng Hồng Ch.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 07 giờ ngày 23/7/2019, tại phòng trọ số B của nhà trọ số 73/2 khu phố Tr Th, phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, Trần Võ Thanh T đã lén lút chiếm đoạt 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu vàng có trị giá 2.300.000 đồng và  01 (một) một điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J6+ màu đỏ có trị giá 3.400.000  đồng của bị hại Đặng Hồng Ch thì bị phát hiện bắt giữ. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt  5.700.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của bị cáo Trần Võ Thanh T đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, có tổng trị giá 5.700.000 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 382/CT-VKS-DA ngày 15 tháng 10 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố bị cáo Trần Võ Thanh T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều  173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm  trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây   mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn đồng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[7] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu thể hiện bị cáo tiền án về tội Trộm cắp tài sản đã được xóa án tích và nhiều tiền sự về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy chưa được xóa nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội đồng thời bị cáo là người nghiện ma túy nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo muốn kiếm tiền nhanh chóng để phục vụ nhu cầu của bản thân mà bị cáo cố tình chiếm đoạt tài sản của bị hại đồng thời bị cáo là người người có nhân thân xấu, người nghiện ma túy. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ  10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án đã thu hồi trả lại cho bị hại Đặng Hồng Ch, bị hại Ch không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[10] Về xử lý vật chứng:

- Xét 01 (một) xe mô tô, biển số 60N3-6140 của Trần Võ Thanh T sử dụng vào việc phạm, T khai nhận mua của người đi đường không rõ nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng không có ai đến nhận nên cần tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Xét 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu vàng và 01 (một) một điện thoại di động hiệu SamSung Glaxy J6+ màu đỏ đã thu hồi trả lại cho bị hại Đặng Hồng Ch là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[12] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng  án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Võ Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Võ Thanh T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính ngày  23/7/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) xe mô tô, biển số 60N3-6140 (xe không hoạt động, không kiểm tra được tình trạng bên trong).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Trần Võ Thanh T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 352/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 tội trộm cắp tài sản 

Số hiệu:352/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;