TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ JÚT, TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 35/2021/HSST NGÀY 27/09/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 27 tháng 9 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cư Jút, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2021/HSST ngày 09 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 39/2021/HSST-QĐ ngày 14 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lục Văn G, sinh năm 1985, tại: tỉnh Cao Bằng; Nơi cư trú: Thôn A, xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Nùng; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 01/12. Con ông Lục Văn T (đã chết) và bà Chu Thị V, sinh năm 1963; Bị cáo có vợ là Lịch Thị V, sinh năm 1983 và có 02 con, con lớn nhất sinh năm 2004, con nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án: không; Tiền sự: 02 tiền sự, ngày 04/9/2020 bị Ủy ban nhân dân xã Đ ra quyết định xử phạt 3.500.000 đồng về hành vi mua bán, cất giữ tài sản do vi phạm pháp luật mà có, đã chấp hành nộp phạt ngày 11/9/2020; Ngày 09/12/2020 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 03 tháng, chấp hành xong ngày 09/3/2021. Nhân thân: Tại Bản án số 57/2015/HSST ngày 31-12-2015, Lục Văn G bị Tòa án nhân dân huyện Cư Jút tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 18/3/2016 và chấp hành xong nghĩa vụ án phí ngày 29/02/2016. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/5/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Cư Jút. Có mặt tại phiên tòa.
- Người bào chữa cho bị cáo:
1. Bà Bùi Thị H - Trợ giúp viên pháp lý;
Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đăk Nông.
2. Bà Vi Thị A - Trợ giúp viên pháp lý;
Địa chỉ: Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đăk Nông.
(Đều có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Chị Lịch Thị V, sinh năm 1983.
Địa chỉ: Thôn A, xã Đ, huyện C, tỉnh Đăk Nông - Có mặt.
2. Anh Bùi Văn Q, sinh năm 1993.
Địa chỉ: Thôn B, xã N, huyện C, tỉnh Đăk Nông - Vắng mặt.
- Người chứng kiến:
1. Anh Bùi Quang Phúc V, sinh năm 1998.
Địa chỉ: Thôn S, xã T, huyện C, tỉnh Đăk Nông - Vắng mặt.
2. Ông Phạm Văn H, sinh năm 1971.
Địa chỉ: Thôn R, xã T, huyện C, tỉnh Đăk Nông - Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 07 giờ ngày 26/5/2021, Lục Văn G đi từ nhà tại thôn A, xã Đ ra Trung tâm Y tế huyện C uống thuốc cai nghiện ma tuý (Methadone). Sau khi uống thuốc xong G đi về hướng xã T, huyện C rồi vào quán cà phê võng để ngồi uống nước và nảy sinh ý định đi mua ma tuý loại Heroine về bán kiếm lời. Đến khoảng 11 giờ 00 phút cùng ngày, G đi lên khu vực ngã ba M, xã H, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk để tìm mua ma tuý. Khi đến nơi G gặp một người tên “Đen” (chưa rõ nhân thân, lai lịch; thông qua các mối quan hệ xã hội G biết người này có bán ma túy) đang đứng dọc đường, G hỏi có ma tuý không, bán 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) thì người tên “Đen” đồng ý, G đưa tiền cho “Đen” và người này đưa cho G 01 (một) gói giấy bạc màu trắng rồi bỏ đi, G mở gói giấy bạc màu trắng ra xem thấy có chất màu trắng và tin là ma tuý Heroine rồi cất vào túi áo ngực phía trước bên phải mà G đang mặc trên người và đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ 00 cùng ngày, G lấy một ít ma tuý từ gói ma tuý đã mua vào buổi sáng ra sử dụng một mình bằng hình thức hít. Sau khi sử dụng ma tuý xong, phần ma tuý còn lại G gói vào giấy bạc và cất trong túi áo ngực bên phải. Đến khoảng 06 giờ 30 phút ngày 27/5/2021, G điều khiển xe mô tô biển kiểm soát (BKS) 48D1- 005.95 đi từ nhà đến Trung tâm Y tế huyện C để tiếp tục uống thuốc Methadone, trên đường đi đến gần đại lý xe máy X (thôn P, xã N, C, Đắk Nông), G gặp một người tên Q hỏi mua ma tuý Heroin, G đồng ý bán và lấy gói ma tuý bên trong túi áo ngực phía trước bên phải, chia một ít ma tuý rồi gói lại bán cho Q lấy số tiền 200.000 (hai trăm nghìn đồng), phần ma tuý còn lại G gói bằng giấy bạc màu trắng và cất vào trong túi áo bên phải trước ngực để khi ai có nhu cầu mua thì sẽ bán, sau đó G tiếp tục đi đến trung tâm Y tế huyện C để uống thuốc Methadone. Sau khi uống thuốc xong G điều khiển xe mô tô đến quán bún P tại số U đường Q thuộc Thôn R, xã T, huyện C, tỉnh Đăk Nông để ăn sáng. Khi đang chuẩn bị ra về thì Cơ quan CSĐT Công an huyện CưJut phối hợp với Công an xã T kiểm tra, quá trình kiểm tra Công an phát hiện 01 (một) gói chất màu trắng nghi vấn là ma túy loại Heroine để trong túi áo bên phải trước ngực mà G đang mặc. Sau đó, Công an huyện Cư Jút lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ các vật chứng có liên quan.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 gói chất màu trắng nghi là ma túy loại Heroin được gói bằng giấy bạc màu trắng để trong túi áo bên phải phía trước ngực G đang mặc trên người, tang vật được niêm phong trong một phong bì thư có chữ ký xác nhận của Lục Văn G, Phạm Văn H, Bùi Quang Phúc V và dấu tròn đỏ của Công an xã T.
- 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu ViVo vỏ màu vàng, kiều máy Y55, 01 sim số 0376.931.109 và 01 sim số 0898.392.551; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia RM-962 vỏ màu đen, 01 sim số 0936.875.172; Số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) trên người của Lục Văn G - 01 xe mô tô BKS 48D1-005.95.
- 01 mảnh giấy bạc màu trắng dùng để gói ma tuý do Bùi Văn Q giao nộp được niêm phong trong bì thư có chữ ký xác nhân của Bùi Văn Q, La Văn C và dấu tròn đỏ của Công an xã N.
Xác định 02 điện thoại di động, 03 sim số và 800.000 đồng (trong tổng số 1.000.000 đồng) không liên quan đến tội phạm và là tài sản hợp pháp của Lục Văn G; xe mô tô biển kiểm soát 48D1-005.95 Giang sử dụng là của chị Lịch Thị V, khi Giang sử dụng xe đi mua bán ma túy thì chị V không biết, vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jut ra quyết định xử lý vật chứng bằng hình thức trả tài sản cho chủ sỡ hữu.
Tại Bản Kết luận giám định số 69/KLMT-PC09 ngày 01 tháng 6 năm 2021, của Phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Đăk Nông, kết luận: Chất rắn màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy bạc được niêm phong trong bì thư gửi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,2837 gam; là Heroine. Mẫu vật còn lại sau giám định khối lượng là 0,2016 gam Heroine.
Tại Cáo trạng số 40/CTr-VKS ngày 08/9/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút truy tố bị cáo Lục Văn G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự (BLHS).
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lục Văn G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của BLHS và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố bị cáo Lục Văn G phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lục Văn G từ 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/5/2021.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị HĐXX:
+ Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 55 ngày 19/7/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút trả lại bị cáo Lục Văn G 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng), 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ViVo vỏ màu vàng, kiểu máy Y55; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia RM-962 vỏ màu đen và 03 sim số: 0376.931.109, 0898.392.5510, 936.875.172; trả lại chị Lịch Thị V xe môtô biển kiểm soát 48D1 - 005.95 là chủ ở hữu hợp pháp.
+ Tịch thu tiêu hủy: Chất rắn màu trắng trong bì thư hoàn lại cơ quan trưng cầu sau giám định có khối lượng mẫu là 0,2016gam. Chất rắn màu trắng trên được đựng trong 01 gói Zipper chỉ đỏ có kích thước (4x6)cm; gói Zipper và gói giấy bạc đựng mẫu giám định được để vào 01 bì thư có kích thước (11x17)cm, mặt trước bì thư có ký hiệu 69/PC09 và ghi mẫu hoàn trả; mặt sau bì thư được dán kín, có chữ ký giáp lai của giám định viên, trợ lý giám định, đại diện Công an huyện Cư Jút và đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông. 01 (một) mảnh giấy bạc màu trắng dùng để gói ma tuý do Bùi Văn Q giao nộp được niêm phong trong bì thư có chữ ký xác nhân của Bùi Văn Q, La Văn C và dấu tròn đỏ của Công an xã N.
+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).
Bản luận cứ của người bào chữa cho bị cáo thể hiện: Đồng ý với nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Lục Văn G là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan. Tuy nhiên, bị cáo Lục Văn G đã nhận thức được hành vi phạm tội của mình là sai trái, trong suốt quá trình giải quyết vụ án bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn rất thấp và nhận thức pháp luật hạn chế; bị cáo là lao động chính trong gia đình, do đó đề nghị HĐXX áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để tuyên bị cáo được hưởng mức hình phạt thấp nhất.
Tại phiên tòa bị cáo Lục Văn G thừa nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi đúng với hành vi cáo trạng đã truy tố và thống nhất với tội danh, điều luật, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút đã đề nghị, không có ý kiến phản đối, kêu oan. Bị cáo không bào chữa và cũng không tranh luận gì thêm mà chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi của Điều tra viên, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Cư Jút; Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Jút, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Căn cứ vào lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 26-27); Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ (BL 28); Biên bản khám nghiệm hiện trường (BL29-30); Kết luận giám định (BL 08), lời khai của những người chứng kiến và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, hoàn toàn có đủ căn cứ để kết luận: Vào khoảng 07 giờ ngày 27/05/2021 tại thôn P, xã N, huyện C, Lục Văn G thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho Bùi Văn Q. Đến 08 giờ 00 phút cùng ngày, tại sân nhà số G, đường Q thuộc Thôn R, xã T, huyện C, tỉnh Đăk Nông, Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút bắt quả tang G đang có hành vi tàng trữ 0,2837gam ma túy, là Heroine nhằm mục đích bán trái phép.
Hành vi của bị cáo Lục Văn G đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.
Khoản 1 Điều 251 của BLHS quy định:
“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.” [3] Hành vi phạm tội của bị cáo Lục Văn G là nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rằng ma túy là chất kích thích, gây nghiện, việc lạm dụng ma túy dẫn đến hủy hoại sức khỏe, thoái hoá nhân cách, suy giảm khả năng lao động. Vì muốn có tiền tiêu xài một cách dễ dàng, bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma tuý nhằm thu lợi bất chính. Hành vi mua bán trái phép chất ma tuý của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy đồng thời xâm phạm đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương, gieo rắc cái chết trắng và gây ra các tệ nạn khác trong xã hội, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo sống có ích, có ý thức tôn trọng pháp luật và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.
[4] Về các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lục Văn G đã thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Do đó bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.
[5] Về nhân thân của bị cáo: Tại Bản án số 57/2015/HSST ngày 31-12-2015, Lục Văn Giang bị Tòa án nhân dân huyện Cư Jút tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong hình phạt ngày 18/3/2016 và chấp hành xong nghĩa vụ án phí ngày 29/02/2016. Ngày 04/9/2020 bị Ủy ban nhân dân xã Đ ra quyết định xử phạt 3.500.000 đồng về hành vi mua bán, cất giữ tài sản do vi phạm pháp luật mà có, đã chấp hành nộp phạt ngày 11/9/2020; Ngày 09/12/2020 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Đ ra quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại xã phường thị trấn do có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn 03 tháng, chấp hành xong ngày 09/3/2021. Bị cáo có 02 tiền sự chưa được xóa án tích và có nhân thân xấu, từng bị Tòa án xử phạt về tội Trộm cắp tài sản; bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, HĐXX cần phải áp dụng mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.
[6] Hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”. Tuy nhiên, theo tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy: Bị cáo không có tài sản riêng. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Đối với Bùi Văn Q là người nghiện ma tuý, mua ma tuý mục đích để sử dụng, số ma túy Q mua đã sử dụng hết, vì vậy Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút chuyển hồ sơ đến Công an xã N để giáo dục tại xã phường đối với Q là có căn cứ.
Đối với Lịch Thị V không biết G sử dụng xe mô tô BKS: 48D1-005.95 thực hiện tội phạm, nên không có căn cứ xử lý.
Đối với người nam thanh niên tên thương gọi là “Đen” (chưa rõ nhân thân, lai lịch) có hành vi bán ma túy trái phép cho G; Cơ quan CSĐT Công an huyện CưJut đang tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.
[8] Về vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 46, 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
+ Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 55 ngày 19/7/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút trả lại bị cáo Lục Văn G 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ViVo vỏ màu vàng, kiểu máy Y55; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia RM-962 vỏ màu đen và 03 sim số: 0376.931.109, 0898.392.5510, 936.875.172; trả lại chị Lịch Thị V xe môtô biển kiểm soát 48D1 - 005.95 là chủ ở hữu hợp pháp.
+ Tịch thu tiêu hủy: Chất rắn màu trắng trong bì thư hoàn lại cơ quan trưng cầu sau giám định có khối lượng mẫu là 0,2016gam. Chất rắn màu trắng trên được đựng trong 01 gói Zipper chỉ đỏ có kích thước (4x6)cm; gói Zipper và gói giấy bạc đựng mẫu giám định được để vào 01 bì thư có kích thước (11x17)cm, mặt trước bì thư có ký hiệu 69/PC09 và ghi mẫu hoàn trả; mặt sau bì thư được dán kín, có chữ ký giáp lai của giám định viên, trợ lý giám định, đại diện Công an huyện Cư Jút và đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông. 01 (một) mảnh giấy bạc màu trắng dùng để gói ma tuý do Bùi Văn Q giao nộp được niêm phong trong bì thư có chữ ký xác nhân của Bùi Văn Q, La Văn Cvà dấu tròn đỏ của Công an xã N.
+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng). [9] Xét quan điểm của người bào chữa cho bị cáo Lục Văn G là phù hợp nên HĐXX cần chấp nhận áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS để quyết định hình phạt đối với bị cáo.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Xét những chứng cứ buộc tội bị cáo, yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa đưa ra là phù hợp nên HĐXX cần xem xét khi quyết định mức hình phạt.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Lục Văn G phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
2. Xử phạt bị cáo Lục Văn G 03 (Ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt, tạm giữ, tạm giam ngày 27/5/2021.
3. Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 46; Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
+ Chấp nhận quyết định xử lý vật chứng số 55 ngày 19/7/2021 của Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút trả lại bị cáo Lục Văn G 800.000đ (Tám trăm nghìn đồng), 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu ViVo vỏ màu vàng, kiểu máy Y55; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia RM-962 vỏ màu đen và 03 sim số:
0376.931.109, 0898.392.5510, 936.875.172; trả lại chị Lịch Thị V xe môtô biển kiểm soát 48D1 - 005.95 là chủ ở hữu hợp pháp.
+ Tịch thu tiêu hủy: Chất rắn màu trắng trong bì thư hoàn lại cơ quan trưng cầu sau giám định có khối lượng mẫu là 0,2016gam. Chất rắn màu trắng trên được đựng trong 01 gói Zipper chỉ đỏ có kích thước (4x6)cm; gói Zipper và gói giấy bạc đựng mẫu giám định được để vào 01 bì thư có kích thước (11x17)cm, mặt trước bì thư có ký hiệu 69/PC09 và ghi mẫu hoàn trả; mặt sau bì thư được dán kín, có chữ ký giáp lai của giám định viên, trợ lý giám định, đại diện Công an huyện Cư Jút và đóng dấu giáp lai của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đăk Nông. 01 (một) mảnh giấy bạc màu trắng dùng để gói ma tuý do Bùi Văn Q giao nộp được niêm phong trong bì thư có chữ ký xác nhân của Bùi Văn Q, La Văn C và dấu tròn đỏ của Công an xã N.
+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).
(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/9/2021 giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Cư Jút và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C và Lệnh thanh toán ngày 13/9/2021 tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, chi nhánh C).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lục Văn G phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 35/2021/HSST ngày 27/09/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 35/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư Jút - Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về