Bản án 35/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG ẢNG, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 35/2021/HS-ST NGÀY 03/02/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 03 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở, TAND huyện Mường Ảng mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 33/2021/TLST-HS, ngày 15 tháng 01 năm 2021, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 34/2021/QĐXXST-HS, ngày 21/01/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tòng Văn U; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1966; tại huyện MA, tỉnh Điện Biên; Nơi cư trú: Bản HS, xã AC, huyện MA, tỉnh Điện Biên; Dân tộc: Thái; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 7/10; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Bố đẻ: Tòng Văn C, sinh năm 1932; Mẹ đẻ: Tòng Thị M, sinh năm 1938; Bị cáo có 05 anh chị em ruột, bị cáo là con thứ 04 trong gia đình; bị cáo có vợ là Quàng Thị L, sinh năm 1972; Bị cáo có 03 người con, con lớn nhất sinh năm 1995, con nhỏ nhất sinh năm 2004; Tiền sự; Tiền án: Không; Nhân thân: Chưa bị xử lý hành chính; Đã bị kết án: Năm 1999 bị cáo bị TAND tỉnh Lai Châu xử phạt 06 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo bản án số 172/HS-ST, ngày 16/9/1999; Năm 2012 bị cáo bị TAND huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 58/2012/HSST, ngày 28/8/2012.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/10/2020 cho đến ngày xét xử sơ thẩm. Bị cáo bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên. Bị cáo có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, bị cáo Tòng Văn U bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Khoảng 09 giờ ngày 09/10/2020 Tòng Văn U đang ở nhà thì có một người đàn ông không quen biết đến hỏi mua bán ma túy chỗ U. Qua trao đổi U đã mua được của người đàn ông này 01 gói Heroine và 14 viên Methamphetamine với giá 720.000đ. Sau đó U chia gói Heroine ra thành 10 gói nhỏ rồi cất giấu toàn bộ số ma túy đã mua được dưới đệm giường ngủ của mình nhằm bán lẻ kiếm lời. Hồi 09 giờ 15 phút ngày 11/10/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuần Giáo đến thi hành lệnh khám xét khẩn cấp người và chỗ ở của U theo lời khai của Chá Chứ S, sinh năm 1978, trú tại bản PK, xã NL, huyện MA về việc trước đó Só đã bán ma túy cho U, trước khi thi hành lệnh khám xét cán bộ Công an huyện Tuần Giáo đã vận động U mang ma túy ra giao nộp thì U tự giác lấy 10 gói Heroine có khối lượng 1,52 gam và 14 viên Methamphetamine có khối lượng 1,41 gam ra giao nộp cho tổ công tác.

Theo biên bản mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu giám định ngày 12/10/2020 của Công an huyện Tuần Giáo và Kết luận giám định số 957/GĐ-PC09, ngày 06 tháng 11 năm 2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Điện Biên đã kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng trích ra từ vật chứng thu giữ của Tòng Văn U gửi giám định là chất ma túy: Loại Heroine.

- Mẫu viên nén màu hồng trích ra từ vật chứng thu giữ của Tòng Văn U gủi giám định là chất ma túy: Loại Methamphetamine.

- Khối lượng vật chứng thu giữ của Tòng Văn U gồm: 1,52 gam chất bột màu trắng và 1,41 gam viên nén màu hồng.

- Heroine nằm trong danh mục các chất ma túy, STT: 09, Mục IA, Danh mục I của Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018.

- Methamphetamine nằm trong danh mục các chất ma túy STT 323, Mục IIC, Danh mục II của Nghị định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 Tại bản cáo trạng số: 09/CT-VKSMA ngày 14/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Mường Ảng để xét xử bị cáo Tòng Văn U về tội “ Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS.

Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo U, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS 2015. Xử phạt Tòng Văn U từ 30 tháng đến 36 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 điều 47 BLHS năm 2015; khoản 1, điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS năm 2015: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy 1,32 gam Methamphetamine và 1,4 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu gửi giám định.

Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Đề nghị Hội đồng xét xử miễn án phí HSST cho bị cáo.

Bị cáo Ún thừa nhận toàn bộ hành vi mua bán trái phép chất ma túy như cáo trạng đã truy tố. Bị cáo nhất trí nội dung bản luận tội của VKSND huyện Mường Ảng, bị cáo không có tranh luận gì.

Bị cáo nói lời sau cùng trước khi nghị án: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án và đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Nội dung vụ án:

Qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa bị cáo Tòng Văn U đã khai và công nhận: Hồi 09 giờ 15 phút ngày 11/10/2020, tại nhà ở của mình thuộc Bản HS, xã AC, huyện MA, tỉnh Điện Biên, bị cáo bị bắt về hành vi tàng trữ trái phép 1,52 gam Heroine và 1,41 gam Methamphetamine. Mục đích của bị cáo tàng trữ trái phép để bán lẻ kiếm lời. Lời khai nhận tội của bị cáo trước phiên tòa ngày hôm nay phù hợp với các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ, cũng như cáo trạng số 09/CT- VKS-MA ngày 14/01/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mường Ảng đã truy tố.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội; Bị cáo đã tàng trữ trái phép 1,52 gam Heroine và 1,41 gam Methamphetamine nhằm mục đích bán lẻ kiếm lời, do vậy buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 251 BLHS.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi phạm tội của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn thực hiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ pháp lý để xét xử bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 điều 251 BLHS quy định “Người nào mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm".

[2] Xét về tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm thấy rằng: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp tội phạm nghiêm trọng, gây nguy hại lớn cho xã hội có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù, được qui định tại khoản 1 điều 9 BLHS. Vì vậy bị cáo phải chịu hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đã gây ra.

[3] Xét về hậu quả của hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra, Hội đồng xét xử thấy rằng: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích để bán của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các chất ma túy, đã tiếp tay cho các loại tội phạm gia tăng, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an trên địa bàn, cần phải được xử lý nghiêm.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo được sinh ra tại Bản HS, xã AC, huyện MA, tỉnh Điện Biên, học hết lớp 7/10 bỏ học ở nhà lao động sản xuất cùng gia đình. Năm 1993 xây dựng gia đình với chị Quàng Thị L và có 03 người con. Năm 1999 bị cáo bị TAND tỉnh Lai Châu xử phạt 06 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo bản án số 172/HS- ST, ngày 16/9/1999; Năm 2012 bị cáo bị TAND huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên xử phạt 42 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo bản án số 58/2012/HSST, ngày 28/8/2012. Bị cáo đã được xóa án tích. Bị cáo có nhân thân xấu. Bị cáo là một người chồng, người cha, bản thân đã hai lần bị kết án, lẽ ra sau khi chấp hành án phạt tù xong về địa phương bị cáo phải biết rèn luyện tu dưỡng bản thân, nhưng do không chịu tu dưỡng, không chịu khó làm ăn, bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ, mua bán ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vì muốn kiếm lời bị cáo đã cố ý đi vào con đường phạm tội, bị cáo đã bị xét xử hai lần về tội liên quan đến ma túy nhưng không lấy đó làm bài học cho bản thân. Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo; Tuy nhiên, tại phiên tòa cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội của mình; khi tổ công tác Công an đến nhà vận động bị cáo đã tự nguyện gia nộp ma túy cho tổ công tác; bố bị cáo là ông Tòng Văn C được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng Nhì. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS. Hội đồng xét xử cần xem xét áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 điều 51 BLHS là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 52 BLHS.

Bị cáo U với nghề nghiệp là làm ruộng, không có thu nhập nào khác, gia đình bị cáo khó khăn về kinh tế, không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung bằng tiền, do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng.

[5] Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Đối với người đàn ông theo lời khai của bị cáo là người đã bán ma túy cho bị cáo, do không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể ở đâu. Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu nào khác, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mường Ảng không đủ cơ sở xác minh làm rõ.

- Bị cáo Tòng Văn U không thừa nhận đã mua ma túy của Chá Chứ Só nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên đã khởi tố Só ở vụ án khác.

[6] Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 điều 47 BLHS năm 2015; khoản 1, điểm a khoản 2 điều 106 BLTTHS năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 1,32 gam Methamphetamine và 1,4 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu gửi giám định.

[7] Án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và có đơn xin miễn án phí. Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án miễn án phí HSST cho bị cáo.

[8] Quyết định truy tố của VKSND huyện Mường Ảng; ý kiến của vị đại diện VKS, ý kiến của bị cáo qua phần tranh tụng công khai tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và các vấn đề khác liên quan đến vụ án. Hội đồng xét xử thấy phù hợp với nội dung vụ án và nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

[9] Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn U phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”;

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt bị cáo Tòng Văn U 30 (ba mươi) Tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt (ngày 11/10/2020).

2. Vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm c khoản 1 điều 47 BLHS năm 2015; khoản 1, điểm a khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu hủy 1,32 gam Methamphetamine và 1,4 gam Heroine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi lấy mẫu gửi giám định.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Mường Ảng và Chi Cục thi hành án dân sự huyện Mường Ảng lập ngày 15/01/2021).

3. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 BLTTHS năm 2015; điểm đ khoản 1 điều 12 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Miễn án phí HSST cho bị cáo.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 35/2021/HS-ST ngày 03/02/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Ảng - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;