Bản án 35/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ CÔNG TÂY, TỈNH TIỀN GIANG

 BẢN ÁN 35/2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/02/2021 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 02 tháng 02 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Công Tây xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 329/2020/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp “Xin ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 01 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1977;

Địa chỉ: Khu phố *, thị trấn V, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Ngọc T, sinh năm 1980;

Địa chỉ: Khu phố *, thị trấn V, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang.

(Chị Q có đơn xin vắng mặt, anh T vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Q có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, chị Q trình bày:

Chị và anh T do quen biết nên tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức lễ cưới năm 2005, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang vào ngày 10/10/2005. Thời gian chung sống anh T không chăm lo cuộc sống gia đình mà thường xuyên chơi bời, có người phụ nữ khác bên ngoài. Chị đã nhiều lần khuyên ngăn, tha thứ cho chồng nhưng anh T vẫn không thay đổi. Hiện nay, anh chị vẫn còn sống chung một nhà nhưng không quan tâm gì đến nhau, anh T bỏ nhà đi, thỉnh thoảng mới trở về. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh T.

Về con chung: Anh chị có một con chung tên Nguyễn Ngọc Mỹ H, sinh ngày 14/8/2005, hiện đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hạnh, không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Kkhông yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có.

Ngoài ra, chị không có trình bày thêm ý kiến gì khác.

* Bị đơn anh Nguyễn Ngọc T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, công bố, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị Nguyễn Thị Q.

* Ý kiến của Viện kiểm sát:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo các văn bản tố tụng, cũng như tại phiên tòa Hội đồng xét xử những người tham gia tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận T bộ yêu cầu xin ly hôn, nuôi con chung của chị Nguyễn Thị Q.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng, chị Nguyễn Thị Q có đơn xin vắng mặt, anh Nguyễn Ngọc T được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để dự phiên tòa, nhưng anh T vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng. Căn cứ Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả thảo luận của Hội đồng xét xử. Hội đồng xét xử xác định quan hệ các bên đang tranh chấp là: “Tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung” cần được xem xét, giải quyết theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Q và anh T tự nguyện cưới nhau, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn V, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang vào ngày 10/10/2005, hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Theo đơn ly hôn và quá trình giải quyết vụ án chị Q cho rằng nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do anh T không chăm lo cuộc sống gia đình mà thường xuyên chơi bời, có người phụ nữ khác bên ngoài, chị Q đã nhiều lần khuyên ngăn, tha thứ cho chồng nhưng anh T vẫn không thay đổi. Tòa án triệu tập anh T nhiều lần nhưng anh T không đến Tòa để trình bày ý kiến. Anh T cũng không gửi cho Tòa án bản trình bày ý kiến về yêu cầu xin ly hôn của chị Q. Điều này cho thấy rằng, anh T không quan tâm đến tình cảm vợ chồng. Ngoài ra, Tòa án đã tiến hành xác minh tại địa phương thì chị Q, anh T có hộ khẩu tại Khu phố *, thị trấn V, huyện Gò Công Tây, tuy nhiên anh T thường xuyên bỏ nhà đi, thỉnh thoảng mới về nhà. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng, giữa chị Q và anh T không còn quan tâm lẫn nhau, hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài được nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Q.

[4] Về con chung: Có một con chung tên Nguyễn Ngọc Mỹ H, sinh ngày 14/8/2005, hiện đang sống chung với chị. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu anh T cấp dưỡng.

Xét thấy, cháu H sống với chị Q đã có cuộc sống ổn định và cháu H có nguyện vọng sống với chị Q, cho nên mặc dù anh T không có ý kiến gì nhưng Hội đồng xét xử xét thấy cần giao cháu H cho chị Q tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Q chưa yêu cầu anh T cấp dưỡng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết. [6] Về nợ chung: Không có.

[7] Về án phí: Chị Q yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[8] Xét ý kiến và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình;

- Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Q.

1. Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Q được ly hôn với anh Nguyễn Ngọc T.

2. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Q được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nguyễn Ngọc Mỹ H, sinh ngày 14/8/2005.

Anh T được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

Chị Q cùng các thành viên trong gia đình không được ngăn cản anh T thực hiện quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn.

3. Về án phí: Chị Q phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí anh đã nộp theo biên lai số 0016883 ngày 16/10/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Công Tây nên chị Q đã nộp xong án phí.

Anh T không phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Q và anh T được quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 35/2021/HNGĐ-ST ngày 02/02/2021 về tranh chấp xin ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:35/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Công Tây - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/02/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;