Bản án 35/2020/HSST ngày 26/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2 – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 35/2020/HSST NGÀY 26/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, số 1400 đường Đồng Văn Cống, phường TH Mỹ Lợi, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2020/HSST ngày 01/6/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2020/QĐXXST-HS ngày 15/6/2020 đối với bị cáo:

Đoàn Minh H, giới tính: Nam, sinh năm: 2000 tại Quảng Ngãi; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn BT 2, xã PS, huyện LH, tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Không ổn định; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Không; con ông Đoàn Văn H, sinh năm 1975 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1975; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30/3/2020 cho đến nay, có mặt.

Bị hại: Anh Huỳnh Ngọc H1, sinh năm 1987.

Địa chỉ: 12D4 đường số A, phường BTT, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 04 giờ 20 phút ngày 30/3/2020, Đoàn Minh H đi bộ từ đường dẫn cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây về đường Nguyễn Duy Trinh, phường Bình Trưng Tây, Quận 2 để tìm nhà trọ. Khi H đi đến trước nhà số 02 đường A, phường BTT, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh thì phát hiện anh Huỳnh Ngọc H1 đang ngồi cạnh xe máy hiệu Honda uture biển số 59Y2 - 202.49, chìa khóa xe vẫn cắm vào ổ khóa xe. Thấy vậy, H lén lút dắt xe máy của anh H1 đi vào h m gần đó nổ máy nhưng không được. H tiếp tục dẫn xe ra đường Nguyễn Duy Trinh hướng về cầu Giồng Ông Tố. Khi đến gần trụ sở Công an phường Bình Trưng Tây, Quận 2 thì H bị ông Nguyễn Văn Đ là bảo vệ dân phố phát hiện khả nghi, yêu cầu H xuất trình giấy tờ xe. Lúc này H nói với ông Đ là xe của người chú bị hư nhờ mang đi sửa, xin để xe tại phường và chờ chú của H đem giấy tờ đến lấy xe về nhưng ông Đ không đồng ý.

Sau đó, H giả vờ xin ông Đ nước uống, lợi dụng ông Đ vào trụ sở Công an phường lấy nước thì H bỏ chạy trốn vào trong công trình xây dựng gần đó. Khi ông Đ lấy nước ra cho H, không thấy H nên truy tìm bắt H cùng tang vật.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh, H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như trên.

Bản kết luận định giá số 78/HĐĐGTS – TCKH ngày 14/4/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thuộc y ban nhân dân Quận 2 thì xe mô tô hiệu Honda uture 1 biển số 59 2 - 202.49 màu đen – xám – vàng tại thời điểm ngày 0/ /2020 trị giá 13.000.000 đồng.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô hiệu Honda uture 1 đời 2012 màu đen xám, biển số 59Y2 - 202.49. Xe mô tô hiệu Honda uture I biển số 59 2 - 202.49, qua xác minh là do anh Huỳnh Ngọc H1 đứng tên đăng ký chủ sở hữu.

Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho anh H1.

Dữ liệu điện tử thu giữ: 01 đoạn ile hình ảnh thu được qua camera tại vị trí nhà số /1 đường A, phường BTT, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh.

Về trách nhiệm dân sự: Anh Huỳnh Ngọc H1 đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu đòi bồi thường gì thêm.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, bị cáo đồng ý với các kết luận giám định và không có ý kiến gì khác.

Bản Cáo trạng số 39/CT-VKSQ2 ngày 28/5/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố bị cáo Đoàn Minh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Đây là vụ án do Đoàn Minh H thực hiện vào khoảng 04 giờ 20 phút ngày 30/3/2020, Đoàn Minh H đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 xe máy hiệu Honda uture, biển số 59Y2 - 202.49 trị giá 13.000.000 đồng của anh Huỳnh Ngọc H1 tại trước nhà số 02 đường A, phường BTT, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Hành vi của H đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, cần xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung cho xã hội.

Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, được quy định tại điểm i, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Bị cáo không tự bào chữa, không tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo rất ăn năn, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn c vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng nêu. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng ... và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự như kết luận của Kiểm sát viên.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến trật tự công cộng, làm mất trật tự an toàn xã hội gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân, xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân và tổ chức được pháp luật bảo vệ. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo với mức án nghiêm mới có tác dụng giáo dục bị cáo nói riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng khác nên chỉ bị xét xử ở khoản 1 Điều 17 Bộ luật Hình sự.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác. Xét sau khi bị bắt, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, nên áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình và xử phạt bị cáo với mức án thấp hơn mức án mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị cũng đ tác dụng giáo dục, răn đe, tạo điều kiện cho bị cáo sớm về với gia đình, cải tạo bản thân trở thành công dân tốt có ích cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với: 01 đoạn ile hình ảnh thu được qua camera tại vị trí nhà số /1 đường A, phường BTT, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là chứng cứ vụ án nên tiếp tục lưu theo hồ sơ.

Bị cáo phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Đoàn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 17 ; điểm i, h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Đoàn Minh H 09 (chín) tháng tù.

Thời hạn từ tính từ ngày 30/3/2020.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 15, 16 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 26/2016/UBTVQH14 ngày 0/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 0 Luật Thi hành án dân sự”.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt tại phiên Tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày Tòa án niêm yết hợp lệ bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 35/2020/HSST ngày 26/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:35/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;