Bản án 35/2020/HSST ngày 23/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 35/2020/HSST NGÀY 23/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 23 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 44/2020/HSST ngày 01 tháng 6 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HS ngày 10/6/2020 đối với bị cáo:

K’T, sinh ngày 10/10/1996 tại tỉnh Lâm Đồng. Tên gọi khác: Không.

HKTT: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

Chỗ ở: Tổ dân phố Srê Nhắc, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Cơ Ho; Tôn giáo: Tin Lành. Trình độ học vấn: 4/12.

Nghề nghiệp: Làm nông. Cha: K’T1, sinh năm 1959. Mẹ: K’T2, sinh năm 1967.

Gia đình bị cáo có 04 anh, chị em, lớn nhất sinh năm 1989, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; Vợ, con : Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 11/3/2014 bị Công an huyện Lâm Hà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 34 về hành vi “Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác” với hình thức phạt tiền 1.250.000 đồng.

- Tại bản án số 84/2015/HSST ngày 26/11/2015 của Tòa án nhân dân huyện Lâm Hà xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Chống người thi hành công vụ”. Bị cáo K’T bị bắt tạm giam từ ngày 19/3/2020 đến nay.

(Bị cáo bị tạm giam có mặt tại phiên tòa).

Bị hại: Anh Đặng Vũ T, sinh ngày 23 tháng 5 năm 2004.

Đại diện hợp pháp của anh Đặng Vũ T có ông Đặng Văn L là cha và bà K’ D là mẹ của bị hại, cùng trú tại: Thôn R’L, xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

(Anh T vắng mặt tại phiên tòa, đại diện hợp pháp của bị hại có mặt tại phiên tòa).

 Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Anh K’ H, sinh ngày 20 tháng 3 năm 2007 Đại diện hợp pháp của anh K’ H là bà K’ K là mẹ, cùng trú tại: Tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

(Anh K’ H, đại diện hợp pháp là bà K’ K có mặt tại phiên tòa).

2/ Anh K’J, sinh ngày 24 tháng 9 năm 2007.

Đại diện hợp pháp của anh K’ J có bà K’J1 là mẹ, cùng trú tại: Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

(Anh K’ J, đại diện hợp pháp bà K’J1 có mặt tại phiên tòa).

3/ Ông Võ Đình V, sinh năm 1959, trú tại: Tổ dân phố Bồ Liêng, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng.

(Ông V vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 18/12/2019, K’T sinh năm 1996 có hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố Đ, thị trấn Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng đến quán nét 69 thuộc tổ dân phố S, thị trấn Đ chơi thì gặp hai cháu là anh K’H, sinh năm 2007 và anh K’J, sinh năm 2007 cùng cư trú tại tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện Lâm Hà đang chơi tại đây thì bị cáo ngồi chơi cùng. Sau đó K’T nảy sinh ý định trộm xe mục đích bán lấy tiền tiêu xài nên đã nói K’H và K’J đến nhà nghỉ Kỳ Duyên thuộc tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện Lâm Hà để lấy xe với K’T nhưng cả hai không đồng ý, thì K’T dùng tay đánh vào vai của anh K’H và anh K’J nên K’H và K’J đi ra ngoài rồi bỏ chạy vào đường hẻm bê tông cạnh đó, K’T thấy vậy đuổi theo dùng chân đá vào mông K’J và dùng tay chọc vào nách K’H bắt đi lấy xe cùng K’T nên cả hai đồng ý. K’T, K’H và K’J đi bộ đến nhà trọ Kỳ Duyên, khi đến cổng K’H và K’J đứng bên ngoài còn K’T vào trong sân nhà trọ quan sát thấy có xe mô tô 49AC - 042.75 nhãn hiệu Dealimikd, loại Wave S màu xanh của anh Đặng Vũ T, sinh năm 2004, hộ khẩu thường trú tại thôn R’Lơm, xã Đạ Đờn, huyện Lâm Hà để trước phòng trọ số 3 rồi đi học, không có người trông coi. K’T đến chỗ xe tìm cách mở khóa xe nhưng không được, K’T đi ra cổng nói với K’H và K’J vào dắt xe ra ngoài cổng cho K’T, thì cả hai vào dắt xe ra, K’T nói K’H dắt xe đến tiệm sửa khóa xe của anh Võ Đình V, sinh năm 1959, hộ khẩu thường trú tại tổ dân phố Bồ Liêng, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà, K’T nói xe bị mất chìa khóa nên nhờ ông V làm lại chìa để mở khóa xe, anh Vũ làm lại chìa khóa mở được khóa xe và cốp xe cho K’T nhưng do K’T không có tiền trả nên anh Vũ không giao chìa khóa. Lúc này K’T đưa cho K’H 20.000 đồng nói đi mua xăng đổ vào xe, sau khi K’H mua xăng đổ vào xe thì K’T điều khiển xe chạy về hướng xã Đạ Đờn, còn K’H và K’J đi bộ đến bờ hồ huyện Lâm Hà chơi. Đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, K’T điều khiển chiếc xe lấy trộm được đến nhà anh K’V, sinh năm 1998 trú tại tổ dân phố Srê Nhắc, thị trấn Đinh Văn, huyện Lâm Hà chơi và để xe trước cổng nhà anh K’V, sau đó ra về thì không thấy xe nữa.

Khoảng 17 giờ 00 phút cùng ngày, anh Đặng Vũ T đi học về phát hiện xe bị mất nên báo với gia đình và nhờ chị K’D là chủ nhà trọ kiểm tra camera thấy K’T, K’H và K’J lấy xe nên nhờ anh Phạm Ngọc T, sinh năm 1975 và anh K’B, sinh năm 1984 là bác và cậu của anh T đều trú tại tổ dân phố S, thị trấn Đ đi tìm xe giúp. Quá trình tìm xe anh K’B phát hiện chiếc xe bị mất đang dựng trước nhà anh K’V nên đem xe đến đưa cho anh T để trình báo cơ quan Công an huyện Lâm Hà.

Tại cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà, K’T đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Căn cứ kết luận định giá tài sản số 152/HĐĐG ngày 23/12/2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Lâm Hà kết luận 01 xe gắn máy BKS 49AC - 042.75 nhãn hiệu Dealimikd, loại Wave S màu xanh có trị giá là 10.800.000 đồng (Mười triệu tám trăm ngàn đồng).

Về tang vật thu giữ: 01 xe gắn máy BKS 49AC – 042.75 nhãn hiệu Dealimikd, loại Wave S màu xanh. Cơ quan điều tra Công an huyện Lâm Hà đã trả lại cho chủ sở hữu theo 32/CSĐT ngày 25/3/2020.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Đặng Vũ T và đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bồi thường gì thêm.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà vẫn giữ nguyên bản cáo trạng số 45/CT-VKS ngày 25/5/2020 truy tố bị cáo K’T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa hôm nay bị cáo K’ Tú đã không thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên không đề nghị áp dụng cho bị cáo K’ Tú được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bị cáo K’ Tú đã có hành vi đánh ép buộc anh K’ H và anh K’ J đều là người dưới 14 tuổi nên bị can K’T bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Đối với anh K’H, anh K’J do sợ bị cáo K’ T đánh đã cùng thực hiện hành vi lấy xe mô tô nên không chịu trách nhiệm hình sự. Đối với hành vi đánh anh K’H và anh K’J bắt lấy xe của bị cáo K’ T đã được anh K’ H và anh K’ J đều có đơn từ chối giám định thương tích và không yêu cầu xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo K’ Tú từ 12 đến 15 tháng tù.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong không đề nghị xử lý.

Ý kiến của vợ chồng ông Đặng Văn L, bà K’ D là đại diện hợp pháp của bị hại: Tài sản ông, bà đã nhận đầy đủ nên không có yêu cầu bồi thường và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ý kiến của bà K’ K là người đại diện hợp pháp của anh K’ H; bà K’J1 là người đại diện hợp pháp của anh K’ J không có yêu cầu bồi thường, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Ông Võ Đình V vắng mặt tại phiên tòa, có đơn xin xét xử vắng mặt và ông không yêu cầu bồi thường.

Ý kiến của bị cáo K’ T: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng và mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở hồ sơ vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục do Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo, những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với bản cáo trạng, bản tường trình của bị hại và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án nên có cơ sở khẳng định: Vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 18/12/2019, K’T sinh năm 1991 đến nhà nghỉ Kỳ Duyên thuộc Tổ dân phố S, thị trấn Đ, huyện Lâm Hà có hành vi lén lút để lấy trộm 01 xe mô tô 49AC - 042.75 nhãn hiệu Dealimikd, loại Wave S màu xanh của bị hại anh Đặng Vũ T.

Theo kết luận định giá tài sản số 152/HĐĐG ngày 23/12/2019 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Lâm Hà xác định giá trị tài sản mà bị cáo K’ Tú chiếm đoạt có giá trị là 10.800.000 đồng(Mười triệu tám trăm nghìn đồng). Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo K’ Tú phạm tội “Trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

Tội trộm cắp tài sản

Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm

[3] Xét tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo thực hiện: Hành vi phạm tội của bị cáo K’ Tú là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ và gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự xã hội, gây hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân tại đia phương. Động cơ, mục đích phạm tội là để có tiền tiêu xài cá nhân. Do vậy cần áp dụng mức hình phạt, tương xứng tính chất, mức độ của hành vi pham tội để răn đe, giáo dục bị cáo và làm gương cho người khác.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo:

 Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo K’ T là người đã thành niên, có sức khỏe nhưng lại không chí thú làm ăn lương thiện mà lại chọn con đường phạm tội thu lợi bất chính để phục vụ cho mục đích cá nhân. Bị cáo đã có hành vi đánh ép buộc anh K’ H, anh K’ J là cháu họ của bị cáo đều là người dưới 14 tuổi nên khi lượng hình Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” theo quy định tại điểm o khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với bị cáo.

Bị cáo là người có nhân thân xấu, năm 2014 đã bị Công an huyện Lâm Hà ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi “Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hàng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác”; năm 2015 đã bị Tòa án huyện Lâm Hà xét xử về tội “Chống người thi hành công vụ” nhưng bị cáo không chịu cảnh tỉnh bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác nên cần xử phạt nghiêm.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo K’ T. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản đã thu hồi trả lại cho chủ sở hữu, tại phiên tòa đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, nên khi lượng hình Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015 đối với bị cáo. Do đó quan điểm của đại diện viện kiểm sát đề nghị không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Tang vật của vụ án là 01 xe gắn máy BKS 49AC - 042.75 nhãn hiệu Dealimikd, loại Wave S màu xanh. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Lâm Hà đã thu hồi 01 xe gắn máy BKS 49AC - 042.75 nhãn hiệu Dealimikd, loại Wave S màu xanh Cơ quan Công an huyện Lâm Hà đã trả lại cho bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Đối với ông Võ Đình V là người đã sửa khóa xe gắn máy BKS 49AC - 042.75 nhãn hiệu Dealimikd, loại Wave S màu xanh do bị cáo K’ Tú đã trộm cắp, ông V không biết là tài sản do bị cáo K’ Tú trộm cắp mà có và không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

Đối với anh K’H, anh K’J do sợ bị cáo K’ T đánh đã thực hiện hành vi lấy xe nên không chịu trách nhiệm hình sự. Đối với hành vi của bị cáo K’ T đánh anh K’H, anh K’J hai anh đều từ chối giám định thương tích nên Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm hình sự.

[6] Từ những phân tích nhận định trên nhận định trên Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo K’ T ra khỏi xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo, giáo dục mình trở thành công dân tốt sống có ích cho gia đình và xã hội, góp phần phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Về án phí: Buộc bị cáo K’ T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo K’ T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm o khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo K’ T 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 19/03/2020.

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án. Buộc bị cáo K’ Tú phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo; bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đại diện hợp pháp của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

240
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 35/2020/HSST ngày 23/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:35/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;