Bản án 35/2020/HS-ST ngày 22/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 35/2020/HS-ST NGÀY 22/07/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 22 tháng 7 năm 2020 tại Hội trường UBND xã Hòa Bình, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, Tòa án nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 34/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 35/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 7 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Thị B, tên gọi khác: Không; sinh ngày 12/6/1978; Nơi sinh: Thái Nguyên; Nơi đăng ký HKTT và chỗ ở: Xóm Đ, xã AK, huyện ĐT, tỉnh TN; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Quốc M, đã chết; Con bà: Lê Thị D, sinh năm 1944; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Chồng thứ nhất: Nguyễn Văn C, sinh năm 1976, đã ly hôn; Chồng thứ hai: Bùi Tuấn A, sinh năm 1979, đã ly hôn; Con: có 02 con, con lớn sinh năm 1998, con nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/11/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên. Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người chứng kiến:

1. Anh Đặng Quyền L, sinh năm 1988 – Vắng mặt Trú tại: Xóm ĐC, xã PT, thành phố TN, tỉnh TN.

2. Ông Phạm Gia M, sinh năm 1958 – Vắng mặt 1 Trú tại: Xóm KM 2, xã KM, huyện ĐH, tỉnh TN.

3. Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1966 – Vắng mặt Trú tại: Xóm LP, xã LS, thành phố TN, tỉnh TN.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 30 phút ngày 25/11/2019, tổ công tác Công an tỉnh Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tuần tra, kiểm soát tại khu vực thuộc xóm KM 2, xã KM, huyện ĐH, tỉnh TN thì phát hiện Lê Thị B đi trên chiếc xe ô tô của hãng Taxi Mai Linh gắn biển kiểm soát: 20A – 299.71 do anh Đặng Quyền L, sinh năm 1988, trú tại: xóm ĐC, xã PT, thành phố TN điều khiển có biểu hiện liên quan đến ma túy. Qua kiểm tra, B tự giác lấy từ trong túi quần phía trước bên phải B đang mặc 01 chiếc tất màu nâu, bên trong chiếc tất có 04 túi nilon màu trắng có chứa chất bột màu trắng, B khai nhận 04 gói chất bột màu trắng trên là Heroine của B. Ngoài ra, tổ công tác còn thu giữ tại túi quần phía trước bên trái B đang mặc 02 chiếc điện thoại di động, một chiếc nhãn hiệu OPPO vỏ màu đen đã cũ, một chiếc nhãn hiệu ITEL vỏ màu đen đã cũ; số tiền 700.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị B. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ và niêm phong vật chứng theo quy định.

Hồi 22 giờ 30 phút cùng ngày, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên khám xét khẩn cấp nơi ở của Lê Thị B tại xóm Đ, xã AK, huyện ĐT, tỉnh TN, kết quả khám xét: Không phát hiện thu giữ gì.

Tiến hành cân xác định khối lượng số chất bột màu trắng thu giữ của B là 48,12 gam, đồng thời lấy 0,82 gam làm mẫu gửi giám định được ký hiệu A1.

Tại Bản kết luận giám định số 1489/KL-KTHS ngày 03/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu A1 gửi giám định là chất ma túy; loại Heroine; có khối lượng là 0,82 gam. Tổng khối lượng thu giữ ban đầu là 48,12 gam.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã làm rõ: B là người bị khuyết tật ở chân nên mỗi lần để giảm cơn đau B thường mua ma túy để sử dụng. Khoảng 15 giờ ngày 25 tháng 11 năm 2019, B thuê anh Đặng Quyền L lái xe Taxi biển kiểm soát: 20A – 299.71 đi đến khu vực đầu cầu Linh Nham thuộc Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên mục đích tìm mua Heroine về để sử dụng cho bản thân. Tại đây, B đã điện thoại hẹn gặp một người đàn ông không biết tên, địa chỉ và mua của người này 04 gói Heroine với giá 19.000.000 đồng, sau đó B bảo lái xe Taxi đi vào khu vực xã KM, huyện ĐH, tỉnh TN tìm nơi sử dụng thì bị tổ công tác của Công an tỉnh Thái Nguyên bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng có liên quan.

Vật chứng của vụ án gồm: 02 phong bì niêm phong ký hiệu: A1, A2 (bên trong có chứa vỏ bì và số chất ma túy còn lại sau giám định); 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đen đã cũ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL vỏ màu đen đã cũ; số tiền 700.000 đồng tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị B. Hiện số vật chứng trên đang được bảo quản, lưu giữ chờ xử lý.

Tại bản Cáo trạng số 34/CT-VKSĐH, ngày 30/6/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Lê Thị B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Hỷ tham gia phiên tòa, sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Thị B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249, điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 11 đến 12 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 02 phong bì niêm phong còn nguyên vẹn ký hiệu: A1, A2.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL vỏ màu đen đã cũ.

+ Tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ màu đen đã cũ và số tiền 700.000 đồng.

+ Trả lại cho bị cáo: 01 chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị B.

Về án phí áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận với bản luận tội của Viện kiểm sát, trong lời nói sau cùng bị cáo xin được hưởng mức án thấp nhất để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tội danh: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 25/11/2019, tại khu vực xóm KM 2, xã KM, huyện ĐH, tỉnh TN. Lê Thị B đang có hành vi tàng trữ 48,12 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an tỉnh Thái Nguyên phát hiện bắt quả tang thu giữ số Heroine trên và một số vật chứng có liên quan. Về nguồn gốc số Heroine trên là do B mua của một người đàn ông lạ mặt, không biết tên tuổi, địa chỉ vào khoảng 17 giờ cùng ngày tại khu vực cầu LN thuộc xã HT, huyện ĐH với giá 19.000.000 đồng mục đích để sử dụng cho bản thân.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Thị B đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, vật chứng đã thu giữ, bản kết luận giám định và những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Hội đồng xét xử thấy, việc truy tố để xét xử đối với bị cáo Lê Thị B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 3 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

Nội dung Điều 249 Bộ luật hình sự quy định như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển ..., thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”:

…… 3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 15 năm:

a)….

b) Heroine có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng,....”.

[2]. Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, Hội đồng xét xử thấy:

Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải; bị cáo có bố đẻ là Liệt sỹ và có mẹ đẻ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự nên khi lượng hình sẽ xem xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo, buộc cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo tàng trữ ma túy mục đích để sử dụng cho bản thân, không có mục đích bán kiếm lời, mặt khác bị cáo là người khuyết tật nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về điều luật áp dụng và hình phạt đối với bị cáo tại phiên tòa là có căn cứ, tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.

[4]. Vật chứng của vụ án:

- Đối với 02 phong bì niêm phong kí hiệu A1, A2 (bên trong có chứa vỏ bì và số chất ma túy còn lại sau giám định) là vật chứng của vụ án không có giá trị và giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu ITEL, vỏ màu đen thu giữ của bị cáo khi bắt quả tang. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai đã sử dụng liên lạc để mua ma túy nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, vỏ màu đen và số tiền 700.000 đồng thu giữ của bị cáo khi bắt quả tang. Quá trình điều tra và tại phiên tòa đã xác định được bị cáo không dùng vào việc phạm tội và không có liên quan đến tội phạm nên trả lại cho bị cáo; tuy nhiên, bị cáo còn phải thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

- Đối với 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lê Thị B thu giữ của bị cáo. Đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo quản lý, sử dụng.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[5]. Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Quá trình khởi tố vụ án, điều tra, truy tố và xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng thực hiện trong vụ án đảm bảo hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.

[6]. Ngoài ra, trong vụ án này, bị cáo khai đã mua ma túy của một người đàn ông, không biết tên, địa chỉ tại khu vực cầu Linh Nham, thuộc xã Hóa Thượng, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên; do không xác định được tên tuổi, lai lịch, địa chỉ của người đàn ông trên nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không có đủ cơ sở điều tra, làm rõ để xử lý là phù hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 249; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 329 Bộ luật Tố tụng hình sự. Xử phạt: Lê Thị B 11 (Mười một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 25/11/2019. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Quyết định tạm giam bị cáo Lê Thị B 45 (Bốn mươi lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2. Vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 02 (Hai) phong bì niêm phong còn nguyên vẹn kí hiệu: A1, A2.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu ITEL, vỏ màu đen, đã cũ có số IMEI là: 358307100110284 và 358307100110292.

- Tạm giữ của bị cáo: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO vỏ mầu đen, đã cũ có số IMEI 1: 869347034307335, IMEI 2: 869347034307327; số tiền 700.000đ (Bẩy trăm nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để đảm bảo thi hành án cho bị cáo.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 090919429 mang tên Lê Thị B.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 20 tháng 7 năm 2020 giữa Công an huyện Đồng Hỷ với Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Đồng Hỷ).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Thị B phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 35/2020/HS-ST ngày 22/07/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:35/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;