Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/01/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN

Ngày 22 tháng 01 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 779/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2020 về tranh chấp hôn nhân gia đình “Ly hôn, nuôi con”, theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số: 590/2020/QĐXX-ST ngày 14 tháng 01 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Vỏ Thị M - Sinh năm 1990. Nơi cư trú: số 176 ấp 12 xã VTT, huyện VT, tỉnh Hậu Giang. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Phạm Văn T - sinh năm 1988. Nơi cư trú: Ấp AM, xã HA, huyện CM, tỉnh An Giang, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Vỏ Thị M trình bày: Bà và ông T quen biết và kết hôn vào năm 2015 có đăng ký kết hôn. Chung sống đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông T không lo làm mà tham gia cờ bạc, thường hay uống rượu và ghen vô cớ nên vợ chồng thường hay cãi nhau. Nhận thấy tình cảm không còn yêu cầu được ly hôn với ông T.

Về con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Đăng K, sinh năm 2016 hiện đang sống với bà, yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về quan hệ tài sản chung: tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về quan hệ nợ chung: không có.

Bị đơn ông Phạm Văn T đã được Tòa án triệu tập tham gia tố tụng nhung vắng mặt không có lý do và cũng không có ý kiến gởi đến Tòa án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục t tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với bị đơn có nơi cư trú tại xã HA, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, nên Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 để tham gia phiên tòa, nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là có căn cứ.

[2]. Về nội dung tranh chấp: Bà Vỏ Thị M và ông Phạm Văn T kết hôn năm 2015 có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân giữa được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Theo bà M trình bày, vợ chung sống hạnh phúc đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình không phù hợp nên thường hay cãi nhau, nguyên nhân do ông T thường uống rượu, tham gia cờ bạc và hay đánh bà. Nhận thấy, tình cảm không còn, bà M yêu cầu ly hôn với ông T. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án về việc bà M yêu cầu ly hôn và triệu tập ông T tham gia các phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa, nhưng ông T vẫn vắng mặt và không có ý kiến phản đối yêu cầu ly hôn của bà M. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa bà M và ông T đã diễn ra trong thời gian dài, nguyên nhân do ông T thường xuyên uống rượu, tham gia cờ bạc không lo lắng trong gia đình, khi uống rượu thì về nhà kiếm chuyện cãi nhau và đánh bà M, đến tháng 8 năm 2020 thì không còn chung sống với nhau đến nay. Trong thời gian này, hai bên cũng không tạo điều kiện cho nhau hàn gắn tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu chung sống với nhau cũng không hạnh phúc. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà M xin ly hôn ông T.

[3] Về quan hệ con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Phạm Đăng K, sinh năm 2016 hiện đang sống với bà M, khi ly hôn bà M yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung, không yêu cầu cấp dưỡng. Xét thấy, từ khi vợ chồng không còn sống chung với nhau, cháu K do bà M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cuộc sống đã ổn định, trong quá trình giải quyết ông T cũng không có ý kiến phản đối yêu cầu này của bà M. Vì vậy, nghĩ nên để bà M tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Khoa là phù hợp với pháp luật.

[4] Về cp dưỡng nuôi con chung: Do bà M không có yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[5] Về quan hệ tài sản chung: Bà M không yêu cầu tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về quan hệ nợ chung: Bà M trình bày không có, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[7] Án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà M phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 144, Điều 147, Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Vỏ Thị M xin ly hôn ông Phạm Văn T.

Giấy chứng nhận kết hôn số 43, ngày 30 tháng 6 năm 2010 do Ủy ban nhân dân xã VTT, huyện VT, tỉnh Hậu Giang cấp không còn giá trị pháp lý.

- Về quan hệ con chung: Bà Vỏ Thị M được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Phạm Đăng K, sinh năm 2016. Ông Phạm Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Vỏ Thị M cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông T trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

- Về quan hệ tài sản chung: các bên không yêu cầu giải quyết.

- Về quan hệ nợ chung: Ghi nhận việc bà M xác định không có nợ chung trong thời kỳ hôn nhân, nhưng sau khi quyết định ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có người khởi kiện xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân, thì bà M, ông T phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

- Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Vỏ Thị M phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, theo biên lai thu số 0013679 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 21/10/2020.

Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 22/01/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;