Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH TƯỜNG, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 21 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Tường xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 181/2020/TLST - HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2020 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 14/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2020, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Đ, sinh năm 1999. Nơi ĐKHKTT: Thôn P, K, huyện V, tỉnh V. Chỗ ở hiện nay: Thôn V, xã T, thành phố V, tỉnh V, (có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Đức T, sinh năm 1998. Địa chỉ: Thôn P, xã K, huyện V, tỉnh V, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 16 tháng 6 năm 2020 và các lời khai tiếp theo nguyên đơn - chị Bùi Thị Đ trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ngày 28/3/2019, chị và anh T đăng ký kết hôn tại UBND xã Kim Xá, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Cưới xong chị về làm dâu và ở chung cùng gia đình anh T. Tình cảm vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không bảo ban nhau về làm ăn kinh tế, bản thân anh T ham mê chơi bời, nợ nần nhiều người, không chịu khó làm ăn, chị khuyên bảo anh T nhiều lần nhưng anh T không nghe nên vợ chồng sinh ra va chạm. Từ tháng 4/2019, anh T có lúc đi làm tự do, có lúc đi chơi, có lúc phải trốn nợ thường xuyên vắng nhà nên vợ chồng không có thời gian gần gũi, tình cảm vợ chồng ngày càng lạnh nhạt và sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Tháng 8/2019, chị làm thủ tục đăng ký nhập khẩu về nhà chồng là do khi đó chị đang mang thai, chuẩn bị sinh con, chị vẫn đang sinh sống tại nhà anh T nên phải đăng ký nhập khẩu để sau sinh chị làm giấy khai sinh cho con tại xã Kim Xá. Cũng bởi vì khi đó chị muốn khuyên bảo anh T thêm để anh T chịu khó làm ăn, quan tâm đến mẹ con chị để vợ chồng chung sống cùng nhau cho con có bố có mẹ. Trong thời gian anh T đi khỏi nhà, thi thoảng anh T có về thăm nhà 1, 2 hôm, sau đó lại đi luôn. Mỗi lần về nhà hoặc gọi điện cho anh T, chị và anh T đều không thể nói chuyện hòa thuận được với nhau nên sinh ra cãi vã. Lần gần đây nhất chị liên lạc với anh T là khoảng đầu tháng 6/2020, chị đã khuyên bảo anh T về nhưng anh T không về nên chị đã làm đơn xin ly hôn gửi Tòa án. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn. Chị xin được ly hôn anh T.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung: Cháu Nguyễn Đức T, sinh ngày 12/10/2019, hiện đang ở cùng chị. Ly hôn chị xin được nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung. Hiện nay, chị làm nghề lao động tự do, thu nhập khoảng 3 đến 4 triệu đồng/1 tháng. Bố mẹ đẻ của chị vẫn khỏe mạnh có thể giúp chị chăm lo cho cháu.

Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức: Chị tự nguyện không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn - anh Nguyễn Đức T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án cùng bản sao đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ của nguyên đơn cung cấp; các văn bản tố tụng của Tòa án gửi cho anh T nhưng anh T đều không đến Tòa làm việc. Vì vậy, Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai và hòa giải theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 06/7/2020 và ngày 18/8/2020 của của bà Nguyễn Thị T (là mẹ đẻ anh T), bà Tươi trình bày: Tháng 3/2019, gia đình tổ chức cưới cho anh T và chị Đ. Cưới xong, chị Đ về làm dâu và ở chung cùng gia đình bà. Nguyên nhân vợ chồng anh chị mâu thuẫn là do từ tháng 4/2019, anh T thường xuyên vắng nhà, anh đi làm tự do lúc ở Hà Nội lúc ở chỗ khác, vợ chồng không chung sống gần gũi nhau nên không tin tưởng, hay cãi vã, tình cảm ngày càng lạnh nhạt. Trong thời gian anh T vắng nhà, anh chị vẫn thường xuyên liên lạc với nhau qua điện thoại nhưng mỗi lần gọi điện anh chị lại cãi nhau. Nay chị Đ xin ly hôn, gia đình bà không có ý kiến gì do chị Đ tự quyết định. Về con chung: Anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Đức T sinh ngày 12/10/2019, hiện nay đang ở cùng chị Đ. Ly hôn chị Đ xin nuôi cháu T thì bà cũng nhất trí vì cháu còn nhỏ. Về tài sản, công nợ: Anh chị có tài sản gì, nợ nần ai hay không bà không biết. Thời gian từ tháng 4/2019 cho đến nay anh T có về thăm nhà được 1, 2 lần xong anh lại đi luôn. Lần gần đây nhất anh T về là cuối tháng 6/2020, khi đó bà có đưa Thông báo thụ lý và giấy triệu tập của Tòa án cho anh T xem. Ngoài ra, những lần Tòa án gửi Thông báo, gia đình bà có nhận được và đã thông báo qua điện thoại, zalo cho anh T biết. Tuy nhiên số điện thoại của anh T bà không thể cung cấp cho Tòa án được, còn địa chỉ cụ thể của anh T thì bà không biết vì anh T không nói. Bà khẳng định các văn bản tố tụng của Tòa án gia đình bà đều thông báo qua điện thoại cho anh T và anh T có biết việc chị Đ xin ly hôn và xin nuôi con chung. Anh T có nói anh bận công việc nên không thể về Tòa án làm việc được, chị Đ xin ly hôn để chị tự giải quyết.

Xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Kim Xá, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc được biết: Ngày 28/3/2019, UBND xã Kim Xá tiến hành đăng ký kết hôn cho anh T và chị Đ. Sau khi kết hôn, chị Đ về làm dâu và chung sống cùng gia đình anh T. Tình cảm vợ chồng anh chị hòa thuận hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh chị không bảo ban nhau được về làm ăn kinh tế, anh T không chịu khó làm ăn nên vợ chồng sinh ra va chạm. Anh chị sống ly thân từ tháng 4/2019 cho đến nay. Quá trình chung sống, anh chị có 01 con chung là cháu Nguyễn Đức T, sinh ngày 12/10/2019, hiện đang ở cùng chị Đ. Nay chị Đ xin ly hôn và xin nuôi con chung, đề nghị Tòa án giải quyết theo pháp luật. Về tài sản, công nợ, anh chị có tài sản gì, nợ nần ai hay không thì địa phương không biết. Anh T đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn Phú Nông, xã Kim Xá, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, đến nay chưa cắt chuyển khẩu khỏi địa phương. Hiện anh T đang đi làm không có mặt ở nhà, hai ba tuần mới về thăm nhà một lần.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường trình bày quan điểm như sau:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tiến hành thụ lý, thu thập chứng cứ và xét xử vụ án theo đúng thẩm quyền, đúng trình tự thủ tục tố tụng mà pháp luật quy định; người tham gia tố tụng chị Đ đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, anh T là bị đơn đã nhiều lần Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt do đó anh T tự chịu trách nhiệm.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn anh T của chị Đ. Về con chung: Giao con cho chị Đ nuôi là phù hợp. Về tài sản chung, công nợ, đất canh tác và công sức các bên đương sự đều không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Đ phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến của đương sự, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Tường. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Chị Bùi Thị Đ khởi kiện yêu cầu được ly hôn anh Nguyễn Đức T và xin nuôi con. Bị đơn anh Nguyễn Đức T hiện có hộ khẩu và cư trú tại: Thôn Đ, xã Lũng Hòa, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc, theo qui định tại các Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Tường.

Đối với anh Nguyễn Đức T, quá trình chuẩn bị xét xử Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt nên thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Toà án chỉ tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ. Sau khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử, anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng đều vắng mặt không có lý do, nên Toà án tiến hành xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]. Về quan hệ Hôn nhân: Chị Đ và anh T đăng ký kết hôn với nhau ngày 28/3/2019, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Kim Xá, huyện Vĩnh Tường. Trước khi kết hôn có được tự do tìm hiểu vì vậy quan hệ hôn nhân giữa chị Đ và anh T là tự nguyện, hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Anh chị có một thời gian ngắn chung sống hòa thuận, hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh T thường xuyên vắng nhà, vợ chồng không bảo ban thống nhất được với nhau về làm ăn kinh tế nên sinh ra va chạm và đã sống ly thân từ tháng 4/2019 cho đến nay. Quá trình giải quyết vụ án, anh T mặc dù đã được Tòa án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án, gia đình đã thông báo cho anh T biết việc chị Đ xin ly hôn và xin nuôi con, nhưng anh T đều không có mặt và cũng không có văn bản gì gửi đến Tòa để trình bày ý kiến về mâu thuẫn hay xin đoàn tụ, không có ý kiến gì về con chung, tài sản, công nợ và đất nông nghiệp. Như vậy, có thể thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Đ và anh T đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc chị Đ xin ly hôn là chính đáng, phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình do đó cần được chấp nhận.

[3]. Về nuôi con chung: Xét thấy, anh T không ý kiến gì về việc nuôi con chung, chị Đ có điều kiện nuôi con, hiện cháu Thịnh dưới 36 tháng tuổi nên cần giao cháu T cho chị Đ nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của pháp luật. Chị Đ không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về tài sản chung, công nợ, đất nông nghiệp và công sức lao động: Do chị Đ và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử: Chị Bùi Thị Đ được ly hôn anh Nguyễn Đức T.

Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Đức T, sinh ngày 12/10/2019 cho chị Đ tiếp tục nuôi dưỡng (Hiện nay cháu Thịnh đang ở cùng chị Đ). Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung và được quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Về tài sản chung, công nợ, đất nông nghiệp, công sức lao động: Không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Chị Bùi Thị Đ phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0005065 ngày 24 tháng 6 năm 2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Vĩnh Tường. Chị Đ đã nộp đủ tiền án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 21/08/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:35/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;