TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUYÊN MỘC, TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
BẢN ÁN 35/2020/HNGĐ-ST NGÀY 12/05/2020 VỀ YÊU CẦU LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 12 tháng 5 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 384/2019/TLST-HNGĐ ngày 03/7/2019 về việc: “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2020/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 02 năm 2020; quyết định hoãn phiên tòa số: 16/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2020; quyết định hoãn phiên tòa số: 28/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2020 và thông báo mở lại phiên tòa số: 34/2020/TB-TA ngày 22/4/2020, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Phương T, sinh năm: 1975 (có mặt) Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
Bị đơn: Ông Phan Khắc Bình T, sinh năm: 1970 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ A, ấp B, xã C, huyện D, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 03/7/2019, bản khai và biên bản không tiến hành hòa giải được, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Phương T trình bày:
* Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Phương T và ông Phan Khắc Bình T chung sống với nhau từ năm 1994, có ký kết hôn tại UBND xã XQ, huyện LK, tỉnh Đồng Nai (nay là thị xã Long Khánh). Hôn nhân là hoàn toàn tự nguyện, không bị ai mai mối hay ép buộc. Trước khi kết hôn bà T và ông T có thời gian tìm hiểu nhau và được hai bên gia đình đồng ý tổ chức lễ cưới.
Sau khi kết hôn, bà T và ông T chung sống hạnh phúc đến năm 2014 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và kéo dài cho đến ngày hôm nay.
Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Ngoài ra, ông T thường xuyên uống rượu, mỗi lần uống rượu là kiếm chuyện đánh đập bà T nên cuộc sống chung của hai vợ chồng không còn hạnh phúc như trước. Bản thân bà T đã cố gắng khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng chung sống với nhau cùng chăm lo cho con cái nhưng không được.
Từ khoảng tháng 7 năm 2019 cho đến nay, bà T và ông T vẫn sống chung một nhà nhưng vợ chồng không còn quan hệ về mặt tình cảm cũng như về kinh tế.
Nay bà T xét thấy tình cảm vợ chồng giữa bà T và ông T không còn, mục đích hôn nhân không đạt nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông T.
- Về con chung: Bà T và ông T có 04 (bốn) con chung là Phan Minh L, sinh ngày: 24/4/1996; Phan Khắc Thái B, sinh ngày: 15/01/2000; Phan Khắc Bình M, sinh ngày: 18/9/2003 và Phan Thanh N, sinh ngày: 02/10/2005. Cháu L và cháu B đã trưởng thành nên không yêu cầu Tòa án xem xét. Cháu M và cháu N đang sống cùng với bà T và ông T. Bà T có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu M, cháu N và tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông T theo quy định để ông T thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nhưng ông T đều vắng mặt không rõ lý do.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuyên Mộc tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:
- Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán đã tuân thủ theo đúng các quy định về pháp luật tố tụng dân sự.
- Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm và đảm bảo đúng nguyên tắc xét xử.
- Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn không chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình, cụ thể là vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định.
- Về thời hạn chuẩn bị xét xử: Thẩm phán vi phạm thời hạn đưa vụ án ra xét xử, cần rút kinh nghiệm.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà T được ly hôn ông T. Về con chung, giao cháu M và cháu Nhã cho bà T nuôi dưỡng, bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Về phần tài sản chung và nợ chung: bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên. Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết và quan hệ tranh chấp: Bà Nguyễn Thị Phương T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Phan Khắc Bình T và yêu cầu giải quyết về con chung. Ông T có nơi cư trú tại xã Bàu Lâm, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu nên xác định quan hệ tranh chấp của vụ án là “Yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Xuyên Mộc theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Bà T chấp hành đúng các quy định của pháp luật; ông T vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do vì vậy,Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về hôn nhân: Căn cứ giấy chứng nhận kết hôn số 18, quyển số 01 ngày 30/11/1994 của Ủy ban nhân dân xã XQ, huyện LK, tỉnh Đồng Nai xác định, hôn nhân của bà T và ông T là hợp pháp. Sau khi kết hôn, bà T và ông T chung sống hạnh phúc, đến năm 2014 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng và kéo dài cho đến ngày hôm nay.
Nguyên nhân mâu thuẫn theo bà T trình bày là do vợ chồng bất đồng quan điểm nên vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau. Giữa hai vợ chồng không còn tiếng nói chung nên cuộc sống không còn hạnh phúc như trước. Ngoài ra, ông T thường uống rượu rồi về kiếm chuyện đánh bà T, bà T đã cố gắng khắc phục mâu thuẫn của hai vợ chồng nhưng không được. Hiện nay, bà T và ông T vẫn sống chung một nhà nhưng vợ chồng không còn quan hệ gì về mọi mặt từ kinh tế cho đến tình cảm.
[4]. Qua xác minh cho thấy, trong thời gian bà T và ông T chung sống tại địa phương thì bà T và ông T có xảy ra mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên cãi vã nhau.
Nguyên nhân là do ông T lười lao động, hay rũ rê bạn bè về nhà uống rượu; mỗi lần uống rượu về là ông T kiếm chuyện cãi nhau với bà T. Nay bà T yêu cầu ly hôn thì đề nghị Tòa án căn cứ theo quy định của pháp luật để giải quyết, địa phương không có ý kiến.
[5] Xét thấy mâu thuẫn giữa bà T và ông T đã đến mức trầm trọng, tình cảm vợ chồng thực sự không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt nên áp dụng Điều 56, Điều 57 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông T.
[6] Về con chung: Bà T và ông T có 04 con chung là Phan Minh L, sinh ngày: 24/4/1996; Phan Khắc Thái B, sinh ngày: 15/01/2000; Phan Khắc Bình M, sinh ngày:18/9/2003 và Phan Thanh N, sinh ngày: 02/10/2005. Cháu L và cháu B đã trưởng thành, riêng cháu M và cháu N đang sống cùng với bà T, ông T. Bà T có nguyện vọng nuôi dưỡng cháu M và cháu N, bà T tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.
Xét yêu cầu của bà T và qua làm việc với cháu M, cháu N thì cháu M, cháu N có nguyện vọng ở với bà T nên giao cháu M, cháu N cho bà T nuôi dưỡng là phù hợp, đảm bảo sự phát triển toàn diện của con theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.
Về yêu cầu cấp dưỡng, bà T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[6] Về tài sản chung và nợ chung: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Bà T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 57 và các Điều 81, 82, 83, 84 và Điều 85 Luật hôn nhân gia đình;
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 35; Điều 39 và Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử: :
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Bà Nguyễn Thị Phương T, bà T được ly hôn với ông Phan Khắc Bình T.
2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Phương T và ông Phan Khắc Bình T có 04 (bốn) con chung là Phan Minh L, sinh ngày: 24/4/1996; Phan Khắc Thái B, sinh ngày: 15/01/2000; Phan Khắc Bình M, sinh ngày: 18/9/2003 và Phan Thanh N sinh ngày: 02/10/2005. Cháu L và cháu B đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xem xét. Bà T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu Minh và cháu N; Bà T không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên; người không trực tiếp nuôi dưỡng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; cha mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc chăm nom, chăm sóc, giáo dục con.
Vì quyền lợi của con chung, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi dưỡng con chung hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Phương T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị Phương T phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000đ bà T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0000259 ngày 03 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuyên Mộc. Bà T đã nộp đủ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, ông T không phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc bản án được niêm yết theo quy định để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.
Bản án 35/2020/HNGĐ-ST ngày 12/05/2020 về yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 35/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Xuyên Mộc - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về