TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI, TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ TỘI HỦY HOẠI TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 23/2019/TLST-HS ngày 02 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 5 năm 2019 đối với bị cáo:
Bùi Phụ T (T B T), sinh ngày 10 tháng 01 năm 1988 tại Quảng Ngãi. Nơi cư trú: Tổ A, phường T P, thành phố Q Ng, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Phụ B và bà Mai Thị H; vợ là Nguyễn Thị Mỹ L và 02 (hai) người con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2019; Có 03 tiền án: Ngày 23/01/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Ngày 28/12/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 15 (mười lăm) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 17/9/2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo chấp hành xong án phạt tù ngày 12/02/2018. Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 27/3/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh”; Ngày 18/3/2015 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị Trưởng Công an phường T P xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo; Ngày 09/4/2015 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường T P ra Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng với thời gian 06 tháng. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 21/01/2019 đến ngày 29/3/2019 được thay thế biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh; bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa;
- Bị hại: Ông Bùi Phụ Q sinh năm 1984 và bà Lê Thị Bích D sinh năm 1993; Cùng nơi cư trú: Tổ A, phường T P, thành phố Q Ng, tỉnh Quảng Ngãi- vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 22/12/2018, Bùi Phụ T và anh ruột là Bùi Phụ Q có mâu thuẫn cãi vả, Q dùng tay đánh vào mặt T 01 cái nhưng không gây thương tích gì, T và Q tiếp tục cãi nhau một lúc sau Q bỏ đi. T vẫn còn bực tức Q nên đi vào bên trong tiệm rửa xe của Q thuộc khuôn viên nhà Q lấy 01 cây tuýp sắt tròn, dài 01 mét và 01 con dao tự chế, cán bằng gỗ dài 20cm, lưỡi sắt dài 40cm đập phá tài sản trong tiệm rửa xe của Q gồm: 01 ti vi hiệu Aconatic 42 inches màu đen (hư hỏng hoàn toàn, không sử dụng được), 01 tủ lạnh 02 ngăn nhãn hiệu Funiki màu trắng đục (bị rách và móp mép nhưng vẫn sử dụng bình thường); 01 máy quạt gió màu đen (nắp lồng bảo vệ bị bung ra ngoài móp méo, cánh bị gãy nhưng vẫn sử dụng bình thường); 01 bình bơm mỡ màu xanh, nắp đen, bên ngoài có ghi chữ Total (thân bình bị móp méo nhưng vẫn sử dụng bình thường); 01 giường xếp (bị gãy phần giữa nhưng vẫn sử dụng bình thường); 01 ghế nhựa và 01 bàn nhựa màu đỏ (hư hỏng hoàn toàn không sử dụng được). Sau khi đập phá tài sản của anh Q, T bỏ về nhà ngủ.
Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự đã tiến hành định giá và kết luận: 01 ti vi hiệu Aconatic 42 inches màu đen (đã qua sử dụng) trị giá 5.000.000 đồng; 01 ghế nhựa cao 70cm, diện tích mặt ghế 35cmx35cm, cao từ đất tới mặt ngồi 35cm, màu đỏ trị giá 20.000 đồng; 01 bàn nhựa, cao 50cm, diện tích mặt bàn 50cmx70cm, màu đỏ, trị giá 20.000 đồng. Như vậy tổng giá trị tài sản của ông Bùi Phụ Q bị Bùi Phụ T hủy hoại là 5.040.000 đồng.
Cáo trạng số 28/CT-VKS ngày 29/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi truy tố bị cáo Bùi Phụ T về tội “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 (Bộ luật hình sự).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 178; điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 24 tháng đến 30 tháng tù.
Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: 01 ti vi hiệu Aconatic 42 inches màu đen (hư hỏng hoàn toàn), 01 tủ lạnh 02 ngăn nhãn hiệu Funiki màu trắng đục (bị rách và móp mép); 01 máy quạt gió màu đen (nắp lồng bảo vệ bị bung ra ngoài móp méo, cánh bị gãy); 01 bình bơm mỡ màu xanh, nắp đen, bên ngoài có ghi chữ total (đã qua sử dụng, thân bình bị móp méo); 01 giường xếp (bị gãy phần giữa); 01 ghế nhựa và 01 bàn nhựa màu đỏ (hư hỏng hoàn toàn) ông Bùi Phụ Q đã nhận lại, không có yêu cầu gì.
Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 cây tuýp sắt tròn, dài 01 mét và 01 con dao tự chế, cán bằng gỗ dài 20cm, lưỡi sắt dài 40cm có tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/5/2019 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi.
Về trách nhiệm dân sự ông Bùi Phụ Q và bà Lê Thị Bích D không yêu cầu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Quảng Ngãi, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều thực hiện hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt bị hại: Ông Bùi Phụ Q và bà Lê Thị Bích D tại phiên tòa nhưng Cơ quan điều tra đã làm việc, có lời khai trong hồ sơ vụ án, việc vắng mặt không ảnh hưởng đến việc xét xử. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định tại điều 292 Bộ luật Hình sự.
[3]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo Bùi Phụ T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, truy tố, phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án nên có cơ sở để xác định: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 22/12/2018, Bùi Phụ T và anh ruột là Bùi Phụ Q có mâu thuẫn cãi vả, sau khi ông Q bỏ đi, T đi vào bên trong tiệm rửa xe của ông Q lấy 01 cây tuýp sắt tròn, dài 01 mét và 01 con dao tự chế, cán bằng gỗ dài 20cm, lưỡi sắt dài 40cm đập phá tài sản trong tiệm rửa xe của ông Q rồi bỏ về nhà ngủ, tổng giá trị tài sản của ông Q bị Bùi Phụ T hủy hoại là 5.040.000đồng. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Hủy hoại tài sản”, trước lần phạm tội này bị cáo đã có 03 tiền án, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 178 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quảng Ngãi truy tố bị cáo về tội danh và hình phạt là có căn cứ.
[4]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường cho bị hại, bị hại có đơn đề nghị miễn trách nhiệm hình sự và không yêu cầu giải quyết dân sự đối với bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5]. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[6]. Về nhân thân: Ngày 27/3/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi xử phạt 18 (mười tám) tháng tù về tội “Không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở chữa bệnh” (theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội, bị cáo đã đương nhiên được xóa án tích); Ngày 18/3/2015 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị Trưởng Công an phường T P xử phạt hành chính bằng hình thức Cảnh cáo; ngày 09/4/2015 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường T P ra Quyết định áp dụng biện pháp cai nghiện ma túy bắt buộc tại cộng đồng với thời gian 06 tháng.
[7]. Tính chất, mức độ của hành vi: Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo xét thấy phải áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, góp phần đấu tranh và phòng chống tội phạm.
[8]. Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: 01 ti vi hiệu Aconatic 42 inches màu đen (hư hỏng hoàn toàn), 01 tủ lạnh 02 ngăn nhãn hiệu Funiki màu trắng đục (bị rách và móp mép); 01 máy quạt gió màu đen (nắp lồng bảo vệ bị bung ra ngoài móp méo, cánh bị gãy); 01 bình bơm mỡ màu xanh, nắp đen, bên ngoài có ghi chữ Total (đã qua sử dụng, thân bình bị móp méo); 01 giường xếp (bị gãy phần giữa); 01 ghế nhựa và 01 bàn nhựa màu đỏ (hư hỏng hoàn toàn) ông Bùi Phụ Q đã nhận lại (bút lục 53) phù hợp với quy định tại điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Đối với 01 cây tuýp sắt tròn, dài 01 mét và 01 con dao tự chế, cán bằng gỗ dài 20cm, lưỡi sắt dài 40cm có tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/5/2019 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi là công cụ, phương tiện bị cáo phạm tội nên phải bị tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Về trách nhiệm dân sự ông Bùi Phụ Q và bà Lê Thị Bích D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[9]. Đề nghị của Kiểm sát viên về phần hình phạt, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[10]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm;
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 178, Điều 38, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
Tuyên bố bị cáo Bùi Phụ T phạm tội “Hủy hoại tài sản”. Xử phạt bị cáo Bùi Phụ T 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án và được trừ thời gian tạm giam từ ngày 21/01/2019 đến ngày 29/3/2019.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy 01 cây tuýp sắt tròn, dài 01 mét và 01 con dao tự chế, cán bằng gỗ dài 20cm, lưỡi sắt dài 40cm có tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/5/2019 giữa Công an thành phố Quảng Ngãi và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Quảng Ngãi
3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Bùi Phụ T phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm
4. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 35/2019/HS-ST ngày 30/05/2019 về tội hủy hoại tài sản
Số hiệu: | 35/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Quảng Ngãi - Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về