TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN TÂY HỒ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 35/2019/HSST NGÀY 28/03/2019 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
Trong ngày 28 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 31/2019/TLST-HS ngày 11 tháng 3 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2019/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2019 đối với:
Bị cáo: Nguyễn Thế T – sinh năm: 1979 tại Hà Nội; HKTT: Số nhà B, ngõ A, phố V, phường K, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội; Trú tại: Số nhà B, đường A, phường Y, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thế N và bà Đỗ Thị V; Gia đình có 03 chị em, bị cáo là con thứ ba; Có vợ là Nguyễn Thị Anh Đ, có 02 con, con lớn sinh năm 2002, con nhỏ sinh năm 2015; Theo Danh chỉ bản số: 347 lập ngày 22/10/2018 tại Công an quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội và lý lịch địa phương cung cấp thì bị cáo có 01 tiền án: Ngày 13/4/2016, TAND quậnTây Hồ xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại ngày 13/11/2017;Về nhân thân: 01 tiền sự đã hết thời hiệu (Ngày 14/10/2009, cai nghiện bắt buộc); Bị cáo đầu thú ngày 18/10/2018, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 – Công an thành phố Hà Nội (có mặt tại phiên tòa).
Bị hại: Anh Đặng Tuấn A – sinh năm 1987; HKTT: Xóm A, xã X, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; Trú tại: Số nhà A, ngõ M, phố P, phường P, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 15 phút, ngày 16/10/2018, Nguyễn Thế T đang bán đồng hồ và điện thoại cũ tại khu vực đường Thanh Niên (ven Hồ Tây), phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội thì anh Đặng Tuấn A (là người bán hàng cùng T ở gần đó) đến xem và đeo thử chiếc đồng hồ nam đeo tay nhãn hiệu SEWA. Do không có nhu cầu mua nên Tuấn A đã trả lại chiếc đồng hồ cho T và quay về tiếp tục bán hàng. Lúc này, T dọn hàng ra về do có khách gọi điện thoại cho T hẹn đến nhà mua loa. Khi đi qua cửa hàng sửa chữa đồng hồ của anh Đặng Văn Dũng, T đã mở túi để lấy 02 (hai) chiếc đồng hồ đeo tay bị hỏng để sửa chữa nhưng không tìm thấy chiếc đồng hồ mà Tuấn A đã xem và đeo thử. T quay lại chỗ bán hàng tìm Tuấn A và hỏi về chiếc đồng hồ nhãn hiệu SEWA. Tuấn A nói là không biết và đã trả lại cho T sau khi đeo thử. Sau đó, T và Tuấn A cùng tìm lại trong túi một lần nữa nhưng không thấy. T tiếp tục hỏi Tuấn A nhưng Tuấn A không trả lời và quay mặt đi. Lúc này, T dùng chân phải đá vào phần hông bên trái của Tuấn Anh. Tuấn A đứng dậy, lùi về phía sau và nói T bình tĩnh giải quyết việc. T yêu cầu Tuấn A đền bù số tiền 1.200.000đ nhưng Tuấn A vẫn không trả lời. T tiếp tục dùng tay phải đấm một cái vào phần ngực trái của Tuấn A và hỏi “ý mày thế nào?”. Lúc này, Tuấn A cho những tài sản đang bày bán vào một chiếc túi đen viền xanh và để dưới đất trước mặt T . Thấy vậy, T cầm túi đựng đồ của Tuấn A lên và yêu cầu Tuần Anh đi theo T tìm quán nước để nói chuyện. Tuấn A đồng ý và đi theo T lên ngã ba Thanh Niên – Phó Đức Chính – Yên Phụ nhưng không tìm thấy quán nước để ngồi. T nói với Tuấn A T sẽ cầm số tài sản của Tuấn A để làm tin và sẽ liên lạc để giải quyết sau. Sau đó, T đi về nhà cất tài sản chiếm đoạt, còn Tuấn A đến Công an phường Thụy Khuê để trình báo.
Ngày 18/10/2018, Công an quận Tây Hồ đã mời Nguyễn Thế T đến làm việc. Tại cơ quan công an, T xin đầu thú hành vi vi phạm của mình và thông báo chị Nguyễn Thị Anh Đào là vợ T mang chiếc túi đựng đồ của Tuấn A đến trụ sở Công an phường Thụy Khuê để giao nộp.
Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thế T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Vật chứng do chị Nguyễn Thị Anh Đào giao nộp là 01 túi đeo bằng vải màu đen, viền xanh nhãn hiệu LFM đã qua sử dụng, bên trong có: 01 ĐTDĐ Nokia 1616 màu xanh đen, IMEI: 358634046165 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Nokia X1 màu đen, IMEI 354122055012789 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Nokia 1280 màu xanh không có pin, IMEI 352431057687304 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Nokia 2700 màu đen, IMEI 358612041179912 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Nokia 106 màu đỏ, IMEI 352935026654825 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Nokia 1200 màu đen 352935026654825 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Nokia E71 màu trắng, IMEI 353240038247586 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Nokia màu đen, IMEI 357884054001686 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Nokia X2 màu đen, không có pin, IMEI 351657054633476 đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Viettel model V6206, không có số IMEI, đã qua sử dụng; 01 ĐTDĐ Haier màu đen model Z1600, IMEI 3544130600511 đã qua sử dụng; 01 đồng hồ bằng kim loại màu vàng, không có dây đeo tay đã qua sử dụng.
Ngày 25/10/2018, Cơ quan CSĐT – CAQ Tây Hồ phối hợp với VKSND quận Tây Hồ tổ chức thực nghiệm điều tra. Qua đó, Nguyễn Thế T đã thực hiện lại toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập được.
Tại Kết luận giám định số 253/KL-HĐĐG ngày 17/12/2018 của Hội đồng định giá tố tụng hình sự quận Tây Hồ kết luận:
- 01 túi đeo bằng vải màu đen, viền xanh nhãn hiệu LFM đã qua sử dụng – không có căn cứ định giá;
- 01 ĐTDĐ Nokia 1616 màu xanh đen, IMEI: 358634046165 đã qua sử dụng – trị giá 70.000đ;
- 01 ĐTDĐ Nokia X1 màu đen, IMEI 354122055012789 đã qua sử dụng – trị giá 150.000đ;
- 01 ĐTDĐ Nokia 1280 màu xanh không có pin, IMEI 352431057687304 đã qua sử dụng – trị giá 100.000đ;
- 01 ĐTDĐ Nokia 2700 màu đen, IMEI 358612041179912 đã qua sử dụng – trị giá 100.000đ;
- 01 ĐTDĐ Nokia 106 màu đỏ, IMEI 352935026654825 đã qua sử dụng – trị giá 50.000đ;
- 01 ĐTDĐ Nokia 1200 màu đen 352935026654825 đã qua sử dụng – trị giá 200.000đ;
- 01 ĐTDĐ Nokia E71 màu trắng, IMEI 353240038247586 đã qua sử dụng – trị giá 300.000đ;
- 01 ĐTDĐ Nokia màu đen, IMEI 357884054001686 đã qua sử dụng – trị giá 50.000đ;
- 01 ĐTDĐ Nokia X2 màu đen, không có pin, IMEI 351657054633476 đã qua sử dụng – trị giá 50.000đ;
- 01 ĐTDĐ Viettel model V6206, không có số IMEI, đã qua sử dụng, không có căn cứ định giá;
- 01 ĐTDĐ Haier màu đen model Z1600, IMEI 3544130600511 đã qua sử dụng– trị giá150.000đ;
- 01 đồng hồ bằng kim loại màu vàng, không có dây đeo tay đã qua sử dụng – trị giá 500.000đ.
Tổng giá trị tài sản định giá là 1.720.000đ (một triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng).
Ngày 19/12/2018, CSĐT – CAQ Tây Hồ ra Quyết định xử lý vật chứng số 09 và tiến hành trao trả toàn bộ tài sản trên cho anh Đặng Tuấn A. Anh Tuấn A xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho T và không yêu cầu đề nghị bồi thường thêm gì khác.
Cáo trạng số: 32/CT-VKS ngày 07 tháng 3 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ đã truy tố bị cáo Nguyễn Thế T về tội “Cướp tài sản” theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự năm 2015
Tại phiên tòa hôm nay:
- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi theo như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo thừa nhận sau khi phát hiện bị mất 01 chiếc đồng hồ, bị cáo có dùng tay chân đánh đồng thời có lời nói đe dọa mục đích để bị hại bồi thường số tiền 1.200.000 đồng tương đương với giá trị 01 chiếc đồng hồ;
- Bị hại anh Đặng Tuấn A khai: Do nghi ngờ anh lấy 01 chiếc đồng hồ nên bị cáo T đã có hành vi dùng chân đạp vào đùi, tay đấm vào vai, chửi bới để buộc anh trả đồng hồ hoặc bồi thường số tiền 1.200.000 đồng. Khi anh không đồng ý, T đã tự ý lấy túi chứa 11 chiếc điện thoại của anh để chiếm đoạt. Anh thừa nhận đồng ý đi với T tìm quán nước ngồi mục đích để thuyết phục T trả lại tài sản. Đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay thấy rằng: Hành vi của bị cáo Nguyễn Thế T đã đủ yếu tố cấu thành tội: Cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự 2015.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng áp dụng tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm và tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, người bị hại có đơn xin xem xét giảm nhẹ hình phạt. Căn cứ khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015.
Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo T mức án từ 40 đến 42 tháng tù. Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
Về dân sự: Người bị hại là anh Đặng Tuấn A không yêu cầu nên không xét. Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Nói lời sau cùng, bị cáo nhận thấy việc làm của bản thân là vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử xem xét mở lượng khoan hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Tây Hồ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo và xuất trình các tài liệu chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Xét lời nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai bị hại, người làm chứng, biên bản tạm giữ đồ vật, bản kết luận định giá tài sản cùng các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở kết luận: Ngày 16/10/2018, tại khu vực đường Thanh Niên, ven Hồ Tây, phường Thụy Khuê, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội, Nguyễn Thế T đã có hành vi dùng dùng tay chân đánh, đá đồng thời có lời nói chửi bới đe dọa anh Đặng Tuấn A mục đích cướp tài sản có tổng giá trị là 1.720.000đ của bị hại.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Thế T đã cấu thành tội: Cướp tài sản. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 168 Bộ luật hình sự 2015. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Tây Hồ đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội danh nêu trên là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; làm mất trật tự trị an xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Xét bị cáo có 01 tiền án: Ngày 13/4/2016, TAND quận Tây Hồ xử phạt 24 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, ra trại ngày 13/11/2017, và 01 tiền sự đã hết thời hiệu: Ngày 14/10/2009, cai nghiện bắt buộc. Theo luật định, tiền án của bị cáo chưa được xóa, bị cáo phạm tội lần này thuốc trường hợp tái phạm. Điều đó cho thấy bị cáo có nhân thân xấu, đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cảm hóa, giáo dục nhưng vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, người bị hại có ý kiến xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, sau khi phạm tội bị cáo đầu thú, nên được coi là tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Vì vậy HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với nhận định của HĐXX.
[3] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập có mức độ không có điều kiện để thi hành nên không áp dụng.
Đại diện Viện kiểm sát đề nghị miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp với pháp luật.
[5] Về dân sự: Người bị hại là anh Đặng Tuấn A không yêu cầu nên HĐXX không xem xét.
Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế T phạm tội “Cướp tài sản”
- Áp dụng khoản 1 Điều 168; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự 2015;
Xử phạt: Nguyễn Thế T 40 (bốn mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/10/2018.
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 và căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
Án xử công khai sơ thẩm.
Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 35/2019/HSST ngày 28/03/2019 về tội cướp tài sản
Số hiệu: | 35/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Tây Hồ - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về