TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 35/2019/HS-ST NGÀY 26/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 26/2019/TLST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo:
Thào A L, sinh ngày 17/7/1989 tại huyện M, Sơn La. Nơi cư trú: Bản L1, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Thào A T (T1 - đã chết) và bà Hờ Thị N; có vợ là Sồng Thị T2 và có 03 con (con lớn nhất sinh năm 2013, con nhỏ nhất sinh năm 2018); tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/11/2018 cho đến nay. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đàm Mạnh H - Luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Sơn La. Có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Sồng Thị T2, sinh năm 1992. Nơi cư trú: Bản L1, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 12 giờ 30 phút ngày 21/11/2018, Tổ công tác Công an huyện M làm nhiệm vụ tại khu vực tiểu khu x, thị trấn H1, huyện M phát hiện và bắt quả tang Thào A L, trú tại: Bản L1, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Thào A L và thu giữ vật chứng gồm: 02 túi ni lon bên trong chứa các viên nén màu hồng nghi là hồng phiến; 01 điện thoại di động và 01 xe máy.
Ngày 21/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M thành lập Hội đồng mở niêm phong, cân tịnh xác định khối lượng và lấy mẫu trưng cầu giám định, kết quả: 02 túi nilon bên trong có chứa 396 viên màu hồng có khối lượng 40,6gam, kết luận giám định là chất ma túy, loại chất Methamphetamine.
Quá trình điều tra, bị cáo Thào A L khai nhận:
Khoảng 09 giờ ngày 20/11/2018, Thào A L mang theo 6.200.000đ điều khiển xe máy biển kiểm soát 26K1 - 080.21 đi từ nhà đến xã C1, huyện S mục đích tìm mua ma túy về bán kiếm lời. Khi đến nơi, L gặp và mua được của một người đàn ông không quen biết 02 túi hồng phiến với giá 6.000.000đ (3.000.000đ/ 01 túi). Sau khi mua được ma túy, L mang về nhà để cất giấu. Ngày 21/11/2018, L điều khiển xe máy chở vợ là Sồng Thị T2 và con trai là Thào A C2 (sinh năm 2018) đến Bệnh viện Đa khoa huyện M để khám bệnh và mang theo 02 túi hồng phiến mục đích tìm người mua để bán kiếm lời. Khi đi đến khu vực tiểu khu x, thị trấn H1 thì bị lực lượng chức năng phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng như trên.
Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án: Thào A L khai mua được của một người đàn ông không biết tên, địa chỉ nên cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh, điều tra.
Đối với Sồng Thị T2 (vợ của L): Quá trình xác minh, điều tra xác định T2 không biết việc L mua bán trái phép chất ma túy nên Sồng Thị T2 không liên quan đến vụ án.
Do có hành vi nêu trên, tại Cáo trạng số 20/VKS-P1 ngày 04/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La đã truy tố Thào A L về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tranh tụng tại phiên tòa, bị cáo Thào A L khai nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La truy tố và không khai báo gì thêm.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Sồng Thị T2 đề nghị trả lại chiếc xe máy là tài sản chung của gia đình bị thu giữ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La giữ quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Thào A L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
Áp dụng điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Thào A L từ 15 đến 16 năm tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo; xử lý vật chứng của vụ án và án phí theo quy định pháp luật.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Thào A L: Nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mở lượng khoan hồng xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt; không áp dụng hình phạt bổ sung và trả lại cho gia đình bị cáo chiếc xe máy là tài sản chung bị thu giữ.
Bị cáo Thào A L nhất trí với ý kiến của người bào chữa nhất trí với ý kiến của người bào chữa và không có ý kiến tranh luận.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án chị Sồng Thị T2 không có ý kiến tranh luận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Hồi 12 giờ 30 phút ngày 21/11/2018, Thào A L đang có hành vi vận chuyển 396 viên hồng phiến có tổng khối lượng 40,6gam Methamphetamine đi bán kiếm lời thì bị phát hiện, bắt quả tang.
Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau:
- Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 12 giờ 30 phút, ngày 21/11/2018 tại tiểu khu x, thị trấn H1, huyện M, tỉnh Sơn La đối với Thào A L cùng vật chứng thu giữ là 396 viên hồng phiến có tổng khối lượng 40,6gam Methamphetamin.
- Kết luận giám định số 07 ngày 26/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu M1, M2 là ma túy; loại Methamphetamine; tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 2,06gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 40,6gam; loại Methamphetamine”.
- Lời khai nhận tội của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ đã thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án.
- Lời khai của anh Vũ Văn Q, sinh năm 1980, trú tại: Tiểu khu x, thị trấn H1, huyện M, tỉnh Sơn La là người chứng kiến việc cơ quan điều tra lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Thào A L.
Với các căn cứ chứng minh trên có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Thào A L đã phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy, tội phạm và hình phạt quy định tại Điều 251 Bộ luật Hình sự.
[3] Về khung hình phạt áp dụng: Bị cáo Thào A L có hành vi mua bán trái phép 40,6gam ma túy, loại Methamphetamine đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt “… Methamphetamine … có khối lượng từ 30 gam đến dưới 100 gam” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 251 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 15 năm đến 20 năm, thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương; trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy; là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tai, tệ nạn và các tội phạm khác nên cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, nhằm mục đích răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[6] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, lẽ ra bị cáo phải chịu hình phạt bổ sung (phạt tiền) theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự nhưng xét thấy bị cáo không có điều kiện để thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
[7] Về vật chứng vụ án:
- Đối với 38,54gam Methamphetamine còn lại sau khi đã lấy mẫu giám định: Xét đây là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel: Quá trình điều tra xác định không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên cần trả lại cho bị cáo.
- Đối với 01 xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE biển kiểm soát 26K1 - 08021 thu giữ của Thào A L lúc bị bắt, bị cáo sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản chung của hai vợ chồng bị cáo. Tại phiên tòa, chị Sồng Thị T2 (đồng sở hữu) có ý kiến xin lại chiếc xe máy vì đây là tài sản có giá trị duy nhất trong gia đình để phục vụ sinh hoạt hàng ngày, xét thấy đề nghị của chị T2 là có căn cứ nên cần chấp nhận.
[8] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Thào A L phạm tội Mua bán trái phép chất ma túy.
1. Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Thào A L 15 (mười lăm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 21/11/2018.
Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy: 38,54gam loại chất Methamphetamine cùng vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và 02 túi nilon màu xanh chứa ma túy ban đầu được niêm phong trong một chiếc phong bì do Công an huyện M phát hành.
- Trả lại cho bị cáo Thào A L một chiếc điện thoại nhãn hiệu Masstel vỏ màu đen kèm 01 sim trong máy được niêm phong trong một chiếc phong bì do Công an huyện M phát hành.
- Trả lại cho chị Sồng Thị T2 01 (một) chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA WAVE màu đen biển kiểm soát 26K1 - 080.21, số máy HC12E5568190, số khung RLHHC121XDY568155, xe có 02 gương chiếu hậu kèm 01 chìa khóa xe, xe đã qua sử dụng.
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Miễn án phí hình sự sơ thẩm đối với bị cao Thào A L.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 26/4/2019).
Bản án 35/2019/HS-ST ngày 26/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 35/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/04/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về