Bản án 35/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 35/2019/HSST NGÀY 26/02/2019 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 02 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 14/2019/TLST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 13/2019/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2019/HSST-QĐ ngày 29 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Thành N, sinh năm 1998 tại Phú Yên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn X, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên; nơi sinh sống: Như trên; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 08/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thanh T và bà Nguyễn Thị P; bị cáo chưa có vợ con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 10/12/2012 bị Ủy ban nhân dân huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong thời gian 18 tháng với lý do nhiều lần trộm cắp tài sản, hủy hoại tài sản, ném đá vào nhà người khác theo Quyết định số 284/QĐ-UBND. Chấp hành xong ngày 18/7/2014 theo Giấy chứng nhận số 189/GCN-TGD. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Võ Thiện H, Luật sư Công ty Luật TNHH Apolo thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. 

- Bị hại: Ông Lê Duy Minh C, sinh năm 1974 – vắng mặt.

Nơi cư trú tại: B3/10 khu phố 4, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lưu Hoài L, sinh năm 1998 – vắng mặt.

Nơi cư trú tại: Thôn H, xã H, huyện T, tỉnh Phú Yên.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thành N, Lưu Hoài L, Lê Văn T và Huy (chưa rõ lai lịch) đều là người làm thuê (chở hàng thực phẩm tại Chợ đầu mối Bình Điền) cho ông Lê Duy Minh C. Trưa ngày 28/10/2017, trong lúc N, L, T, H đang ngồi uống rượu bia và định mở loa hát karaoke tại nhà C, địa chỉ D3/10 Khu phố 4, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh thì C không cho mở loa ca hát rồi vào nhà nằm ngủ trên ghế salon. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, nhóm của N nghỉ nhậu, H về nhà, T bỏ đi lên lầu nhà C ngủ; Lúc này, N tức giận việc C không cho ca hát và thường la mắng N trong thời gian làm việc nên rủ L kêu C dậy hỏi lý do và L đồng ý. Tiếp đó, cả hai đến chỗ ông C đang nằm ngủ, N kêu C dậy và hỏi lý do vì sao cứ la mắng N và L nên xảy ra cự cãi giữa N với C, C cầm bình trà bằng sành ném trúng tay trái N gây thương tích, trong lúc né tránh N làm ngã chiếc ghế nệm. Thấy cây mã tấu tự chế nằm dưới ghế (C để sẵn từ trước để phòng thân), N dùng tay trái cầm lên chém liên tục nhiều nhát vào người C rồi kêu L chạy ra ngoài mở cửa cổng nhưng L tìm không thấy chìa khóa; lúc này C lấy bình thủy đựng nước nóng (để gần đó để uống trà) đỡ thì bị N chém trúng, làm vỡ bình thủy văng nước nóng vào người C, C bỏ chạy lên lầu. Sau đó, N đi ra trước nhà, bỏ cây mã tấu cạnh hàng rào và leo qua hàng rào ra ngoài, L quay vào nhà lấy áo khoác thì thấy trên ghế gỗ nơi C nằm ngủ có số tiền 1.050.000 đồng nên lấy số tiền này bỏ vào túi áo, trèo qua hàng rào ra ngoài rồi cùng N bỏ trốn.

Sau khi sự việc xảy ra, C được T và người nhà đưa đến Bệnh viện Bình Chánh cấp cứu, điều trị vết thương rồi đến Công an thị trấn Tân Túc trình báo vụ việc. Công an thị trấn Tân Túc tiến hành lập hồ sơ ban đầu, thu giữ và niêm phong vật chứng rồi chuyển đến Công an huyện Bình Chánh xử lý.

Tại kết luận giám định pháp y về thương tích số 1023/TgT.17 ngày 14/12/2017 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở y tế TP. Hồ Chí Minh đối với Lê Duy Minh C kết luận:

 “1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Bỏng tạo sẹo rải rác vá vết tăng sắc tố da phẳng tại vùng bụng, bẹn trái và đùi trái. 

Thương tích do bị bỏng nhiệt gây ra.

- Hai vết thương phần mềm:

+ Một vết sẹo tăng sắc tố da phẳng kích thước 6,5x(0,1-0,3) cm tại lưng.

+ Một vết sẹo tại mặt sau, trong 1/3 dưới cẵng tay trái kích thước 2x0,3cm.

Các thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn hoặc vật có cạnh sắc gây ra. Con dao như đã cung cấp gây ra được hai thương tích này.

- Vết thương tại gốc ngón II bàn tay phải gây gãy hở đốt gần ngón II, đã được điều trị bao khớp, hiện còn:

+ Sẹo kích thước 3x0,1cm tại gốc ngón II.

+ Có hạn chế vận động khớp bàn ngón của ngón II.

Thương tích do vật sắc, vật sắc nhọn tác động mạnh gây ra, con dao như đã cung cấp gây ra được thương tích này.

2. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 25%”.

Tại kết luận giám định pháp y về ADN số 1.300-2017/ADN ngày 13/12/2017 của Trung tâm Pháp y thuộc Sở y tế TP. Hồ Chí Minh kết luận: “ADN của Lê Duy Minh C có hiện diện trong vết nâu trên lưỡi dao mã tấu”.

Đối với thương tích ở tay trái của N: Hiện vết thương đã lành, N không có yêu cầu giám định, không có yêu cầu xử lý hình sự nên Cơ quan điều tra không xử lý.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Lê Thành N đã khai nhận hành vi như trên. Bị hại C khai bị N chém trong lúc ngủ và bị N lấy số tiền 14.400.000 đồng. Tuy N, N không thừa nhận chiếm đoạt số tiền này nhưng có nghe Lưu Hoài L nói có lấy số tiền 1.050.000 đồng của C. Riêng Lưu Hoài L khai nhận có lấy số tiền 1.050.000 đồng của Lê Duy Minh C.

Về vật chứng vụ án: 01 cây mã tấu tự chế, 01 nón vải, 01 tấm chăn, 01 bình thủy (đã bị bể). Số vật chứng này Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh tạm giữ, chờ xử lý.

Về dân sự: Bị hại C đã nhận số tiền bồi thường của N và L là 26.827.000 đồng, bị hại chưa có yêu cầu bồi thường thêm.

Tại bản cáo trạng số 129/CT-VKSBC ngày 05 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Lê Thành N về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 2 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 (khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội: Xử phạt bị cáo từ 04 đến 05 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Tách phần yêu cầu bồi thường thiệt hại giữa bị hại và bị cáo ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi bị hại có đơn yêu cầu.

Bị cáo Lê Thành N trình bày: Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội, không oan sai. Bị cáo không có lấy số tiền 14.400.000 đồng của bị hại mà do Lưu Hoài L lấy của bị hại. Bị cáo rất ăn năn, hối hận về hành vi của bị cáo, xin Hội đồng xét xử cho bị cáo hưởng án treo hoặc mức án thấp nhất để bị cáo sớm quay về với xã hội.

Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày quan điểm bào chữa: Trong vụ án này Cơ quan điều tra thiếu trách nhiệm trong việc điều tra bổ sung theo yêu cầu của Hội đồng xét xử, cụ thể như sau: Cơ quan điều tra xác minh địa chỉ cư trú của bị hại sơ xài, chỉ xác minh một lần, nội dung xác minh không hỏi rõ nơi cư trú của bị hại, không đăng báo tìm bị hại, không hỏi người thuê nhà của bị hại biết bị hại đi đâu không; từ đó dẫn đến không thực nghiệm điều tra, cho đối chất với bị hại được theo yêu cầu của Hội đồng xét xử; Cơ quan điều tra cũng không thực hiện đầy đủ yêu cầu điều tra bổ sung của Hội đồng xét xử như không thu thập camera và thu giữ bình trà và cho rằng sau khi làm việc được với N và L mới biết được bị hại có dùng bình trà ném bị cáo và do lúc đầu bị hại khai không có ném bình trà vào bị cáo nên công an không thu giữ vật chứng là bình trà là không đúng và mâu thuẫn; vì tại bản ảnh hiện trường thể hiện có bình trà nhưng công an không chịu thu giữ; Cơ quan điều tra cho rằng do không tìm được bị hại, nhà bị hại đã cho người khác thuê nên không vào nhà để thực nghiệm điều tra được là không đúng và không đủ cơ sở để xác định bị hại có ném bình trà trúng bị cáo hay không và căn cứ vào đâu Cáo trạng xác định lỗi hoàn toàn do bị cáo gây ra. Luật sư bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử tiếp tục trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung những vấn đề Hội đồng xét xử đã yêu cầu điều tra bổ sung tại phiên tòa trước mà Viện kiểm sát không thực hiện để làm rõ. Trường hợp Hội đồng xét xử không trả hồ sơ mà tiếp tục xét xử thì đề nghị Hội đồng xét xử xem xét trong vụ này lỗi phần do bị hại ném bình trà vào bị cáo nên bị cáo mới hoảng loạn và cầm dao quơ qua quơ lại trúng gây thương tích cho bị hại chứ bị cáo không cố tình chém bị hại; mục đích bị cáo gặp bị hại để nói chuyện chứ không phải để gây thương tích cho bị hại; đối với thương tích do bỏng nước bình thủy đề nghị không tính lỗi do bị cáo gây ra; bị cáo bị kích động mạnh về tinh thần; đã tích cực bồi thường thiệt hại, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải và bị hại cũng có lỗi; bản thân bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo, không gây nguy hiểm cho xã hội;

Từ những nhận định trên, luật sư bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm e, b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 65 của Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo dưới khung hình phạt bị truy tố và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét thấy lời khai nhận tội tại phiên tòa của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng, Kết luận giám định thương tích, vật chứng của vụ án và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận vào ngày 28/10/2017 tại địa chỉ D3/10 khu phố 4, thị trấn Tân Túc, huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Lê Thành N thực hiện hành vi dùng dao chém gây thương tích cho ông Lê Duy Minh C với tỉ lệ tổn thương cơ thể 25%.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác. Khi thực hiện hành vi dùng dao gây thương tích cho bị hại, bị cáo đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nhưng vì xem thường pháp luật và tính mạng, sức khỏe của người khác nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Tuy bị cáo chỉ gây thương tích cho bị hại với tỷ lệ tổng thương cơ thể là 25%, nhưng bị cáo dùng dao, là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại, là tình tiết định khung tăng nặng đối với bị cáo được quy định tại điểm a (dùng hung khí nguy hiểm) khoản 1 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

[3] Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

[4] Xét về nhân thân, bị cáo có nhân thân xấu: Ngày 10/12/2012 bị Ủy ban nhân dân huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng trong thời gian 18 tháng với lý do nhiều lần trộm cắp tài sản, hủy hoại tài sản, ném đá vào nhà người khác theo Quyết định số 284/QĐ-UBND. Chấp hành xong ngày 18/7/2014 theo Giấy chứng nhận số 189/GCN-TGD nhưng bị cáo vẫn không có ý thức chấp hành pháp luật, lại thực hiện hành vi phạm tội nên cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Tuy nhiên, xét thấy tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai cáo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho bị hại; bị hại cũng có một phần lỗi; đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo được quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Mặt khác, theo quy định tại điểm khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định hình phạt nhẹ hơn quy định tại khoản 2 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 nên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử có xem xét áp dụng khoản 3 Điều 7, khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội và các tình tiết giảm nhẹ nêu trên để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: 01 cây mã tấu tự chế, 01 nón vải, 01 tấm chăn, 01 bình thủy bị bể. Xét đây là công cụ bị cáo đã sử dụng vào việc phạm tội và vật không có giá trị sử dụng nên tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[7] Về dân sự: Bị hại C đã nhận số tiền bồi thường của gia đình bị cáo N và Lưu Hoài L là 26.827.000 đồng, chưa có yêu cầu bồi thường thêm. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị hại đến tham gia phiên tòa nhưng bị hại vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định tách phần dân sự về bồi thường thiệt hại giữa bị hại và bị cáo ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi bị hại có đơn yêu cầu.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

 [9] Đối với việc bị hại Lê Duy Minh C khai bị Lê Thành N chém trong lúc ngủ và bị N lấy số tiền 14.400.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo N không thừa nhận chiếm đoạt số tiền này của bị hại nhưng có nghe Lưu Hoài L nói có lấy số tiền 1.050.000 đồng của C. Lưu Hoài L khai nhận có lấy số tiền 1.050.000 đồng của Lê Duy Minh C.

Do lời khai của các bên có mâu thuẫn và không có tài liệu, chứng cứ nào khác để xác định ai là người chiếm đoạt tiền của bị hại và số tiền chiếm đoạt là bao nhiêu nên ngày 14/11/2018 Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh đã ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh để cho thực nghiệm điều tra và cho đối chất với bị hại C để làm rõ hành vi chiếm đoạt tiền của bị hại….Tuy nhiên tại công văn hoàn hồ sơ lại cho Tòa án và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát cho rằng do bị hại đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, nhà của bị hại đã cho người khác thuê nên Cơ quan điều tra không thể vào nhà cho tiến hành thực nghiệm điều tra và cho đối chất với bị hại được, vì vậy chưa đủ cơ sở để xử lý đối với Lưu Hoài L. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra khi nào đủ cơ sở sẽ xử lý hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại sau. Do đó, Hội đồng xét xử yêu cầu Cơ quan điều tra tiếp tục cũng cố hồ sơ, điều tra làm rõ ai là người chiếm đoạt tiền của bị hại và số tiền chiếm đoạt là bao nhiêu để xử lý sau theo quy định của pháp luật.

[10] Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử xét chấp nhận quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát đề nghị về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo cũng như giải quyết phần dân sự. Hội đồng xét xử không chấp nhận đề nghị của luật sư bào chữa và bị cáo đề nghị xử phạt bị cáo dưới khung bị truy tố và cho bị cáo hưởng án treo vì không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và không đảm bảo tính răn đe đối với bị cáo.

[11] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Thành N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 104, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009; khoản 3 Điều 7, khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội;

Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 106, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử phạt bị cáo Lê Thành N 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.

Tịch thu và tiêu hủy: 01 (một) cây mã tấu tự chế, 01 (một) nón vải, 01 (một) tấm chăn, 01 (một) bình thủy bị bể.

(các vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh đang tạm giữ theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 19/9/2018 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục thi hành án dân sự huyện Bình Chánh)

Tách phần yêu cầu bồi thường thiệt hại giữa bị hại và bị cáo ra để giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi bị hại có đơn yêu cầu.

Bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 35/2019/HSST ngày 26/02/2019 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:35/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/02/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;