TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
BẢN ÁN 35/2019/HS-PT NGÀY 16/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 16 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 55/2019/TLPT-HS ngày 12 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Văn X do có kháng cáo của bị cáo và kháng cáo của Đại diện theo ủy quyền của bị hại Đặng Hồng V đối với bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HS-ST ngày 06 tháng 6 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai.
- Bị cáo có kháng cáo, bị kháng cáo:
Nguyễn Văn X, sinh năm 1983, tại A, Gia Lai. Nơi cư trú: tổ 1, phường A, thị xã K, tỉnh Gia Lai; nghề nghiệp: lái xe; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn L và bà Võ Thị Q, có vợ là Phan Thị N và có 04 con; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 10/12/2018 bị Công an thị xã A xử phạt vi phạm hành chính 300.000 đ về hành vi “Vận chuyển khoáng sản (cát) trái phép”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/01/2019 cho đến ngày 24/01/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn và áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại. Có mặt
- Bị hại: Công ty Cổ phần Đường Q; Địa chỉ: 02 Nguyễn Chí T, thành phố Q, tỉnh Q.
Đại diện theo ủy quyền: ông Đặng Hồng V, chức vụ: Phó giám đốc Nhà máy đường A thuộc Công ty Cổ phần Đường Q
Nơi cư trú: Tổ 4, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
1.Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ ngày 16/01/2019 anh Võ Thành C là nhân viên bảo vệ của Nhà máy đường A, trong lúc tuần tra phát hiện tại bãi thiết bị vật tư của nhà máy bị kẻ gian tháo trộm một bộ bạc đồng thứ cấp của bánh răng chuyển động máy ép mía là thiết bị cũ không còn sử dụng. Tại đây, anh C phát hiện có 01 con đội (loại kích thủy lực) được cất giấu gần vị trí tài sản đã mất. Phán đoán đây là công cụ do đối tượng trộm cắp tài sản cất giấu và sẽ quay lại để lấy nên tổ bảo vệ nhà máy đã mật phục. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày thì phát hiện một thanh niên điều khiển xe mô tô biển số 81F6 – 3210 đến lấy con đội. Sau khi phát hiện có lực lượng bảo vệ người thanh niên này đã bỏ chạy và để xe mô tô lại. Lực lượng bảo vệ nhà máy đã truy đuổi nhưng không bắt được nên đã báo cáo sự việc với Công an thị xã A.
Qua điều tra xác định: Vào khoảng 18 giờ ngày 15/01/2019 sau khi nhậu ở quán Heo Quay tại tổ 4, phường An Bình, thị xã A cùng với Tô Thành V, thì V lái xe mô tô biển số 81H3-2850 của mình chở X đi theo đường Lê Thị Hồng Gấm ra đường Nguyễn Văn Trỗi hướng ra xã Thành An ra đường đập tràn theo Tỉnh lộ 669 để đi về nhà. Khi đi ngang qua Nhà máy đường A, X đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên X đã rủ V trộm cắp bộ bạc đồng của bánh răng thứ cấp truyền động của máy ép mía. Sau khi lấy được bộ bạc đồng V điều khiển xe chở X ngồi sau chạy đến nhà bà Nguyễn Thị N bán được 7.150.000 đồng. Khi bán xong X và V quay lại nhà máy tiếp tục đặt con đội vào bộ bạc đồng khác bên cạnh định lấy tiếp thì có ánh đèn pin rọi sợ bị phát hiện nên cả hai bỏ con đội lại rồi đi về nhà ngủ.
Khoảng 05 giờ ngày 16/01/2019, X điều khiển xe mô tô biển số 81F6-3210 của mình đến vị trí bỏ con đội để lấy mang về, nhưng khi vừa lấy con đội thì bảo vệ Nhà máy đường phát hiện truy đuổi để lấy mang về, nhưng khi vừa lấy con đội thì bảo vệ Nhà máy đường A phát hiện truy đuổi nên X bỏ xe mô tô lại rồi cầm con đội chạy bộ được một đoạn thì X giấu con đội vào gầm xe ô tô gần đó rồi chạy trốn. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã A đã triệu tập Nguyễn Văn X và Tô Thành V đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình.
2. Giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm:
Tại bản án hình sơ sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 06-6-2019 của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn X phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn X 10 (mười) tháng tù, thời hạn tính từ ngày vào trại chấp hành án. Được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 17/01/2019 đến ngày 24/01/2019
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên hình phạt đối với bị cáo khác, quyết định về xử lý vật chứng, nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
3. Kháng cáo của bị cáo
Ngày 12/06/2019 bị cáo Nguyễn Văn X kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
4. Kháng cáo của Đại diện theo ủy quyền của bị hại
Ngày 12/06/2019 đại diện theo ủy quyền của bị hại, ông Đặng Hồng V kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Nguyễn Văn X và cho bị cáo Nguyễn Văn X được hưởng án treo.
5. Diễn biến tại phiên tòa phúc thẩm:
- Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt, và xin được hưởng án treo. Lời nói sau cùng bị cáo cho rằng gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính, bị cáo còn vợ và 04 người con còn nhỏ, bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng.
- Bị hại giữ nguyên nội dung kháng cáo: xin cho bị cáo giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
- Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 của Bộ luật tố tụng hình sự chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo và bị hại sửa phần Quyết định của bản án hình sự sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn X 08 (tám) tháng tù.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Nguyễn Văn X khai nhận, sau khi cùng Tô Thành V đi nhậu về ngang qua Nhà máy đường A, thấy việc bảo vệ tài sản của nhà máy lỏng lẻo nên bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp. Bị cáo và V đã trộm bộ bạc đồng của bánh răng thứ cấp truyền động của máy ép mía bán được 7.150.000 đồng. Do đó tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội.
[2] Về kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo và bị hại thấy rằng: Tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về hình phạt như sau “...phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm”. Tuy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng xét về nhân thân của bị cáo vào tháng 12/2018 vừa bị Công an thị xã A xử phạt vi phạm hành chính về tội “Vận chuyển khoán sản trái phép”, đối chiếu với quy định tại Nghị quyết số 02/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo không đủ điều kiện được hưởng án treo. Do đó, cần thiết xử bị cáo hình phạt tù mới tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra và để răn đe và phòng ngừa chung cho xã hội. Nên kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo và bị hại không được Hội đồng xét xử chấp nhận.
Đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và bị hại thấy rằng: Bản thân bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015; Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo đã nộp đơn của Ủy ban nhân dân phường Tân An xác nhận hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình, có vợ và 04 con còn nhỏ tuổi. Đại diện theo ủy quyền cho bị hại tại phiên tòa thừa nhận có một phần lỗi trong việc quản lý tài sản của công ty không chặt đã tạo điều kiện cho bị cáo dễ dàng thực hiện hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét về hoàn cảnh gia đình khó khăn của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đại diện hợp pháp của bị hại, sửa án sơ thẩm theo hướng giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo được hưởng sự khoan hồng của pháp luật.
Do án sơ thẩm bị sửa nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015,
1. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 06-6-2019 của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai về phần hình phạt.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn X 08 (tám) tháng tù, thời hạn tính từ ngày vào trại chấp hành án. Được khấu trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 17/01/2019 đến ngày 24/01/2019.
2. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án; Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án ./.
Bản án 35/2019/HS-PT ngày 16/08/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 35/2019/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Gia Lai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/08/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về