Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÀU BÀNG, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 35/2018/HNGĐ-ST NGÀY 25/10/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 10 năm 2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý 178/2018/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 8 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 9 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 31/2018/QĐST- HNGĐ ngày 08 tháng10 năm2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thuý L, sinh năm 1982; nơi cư trú: ấp A, xãC, huyện B, tỉnh Bình Dương; có mặt.

- Bị đơn: Ông Trần Quang K, sinh năm 1984; nơi cư trú: ấp A, xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên toà nguyên đơn bà Nguyễn Thị ThuýL trình bày:

Bà L và ông K tự nguyện sống chung và tiến hành đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện F, (nay là huyện B), tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 07, quyển số 01/2007 ngày 28 tháng 5 năm 2007 (ngày 22 tháng 5 năm 2017 cải chính hộ tịch theo trích lục cải chính hộ tịch số49/TLCCHT của Uỷ ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương). Sau khi kết hôn, bà L và ông K sống tại xã E, huyện B, tỉnh Bình Dương. Năm 2008, bà L và ông K về sinh sống tại ấp A, xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương cho đến nay. Quá trình sống chung, bà L và ông K sống hạnh phúc đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, cách sống không hợp nhau, ông K thường xuyên uống rượu, không lo làm ăn để tạo ra vật chất để nuôi con, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau và không còn sống chung từ năm 2014 đến nay. Do mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, bà L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông K.

Về con chung: Bà L và ông K có hai con chung tên Trần Nguyễn Tuệ M, sinh ngày 28 tháng 8 năm 2009 và Trần Nguyễn Thiện N, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2011. Khi ly hôn, bà L yêu cầu tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung là cháu M, cháu N. Bà L không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: bà L không yêu cầu Tòa án giải quyết. Chứng cứ nguyên đơn cung cấp để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện gồm: giấy chứng nhận kết hôn (bản chính); giấy khai sinh mang tên Trần Nguyễn Tuệ M, Trần Nguyễn Thiện N (bản sao); trích lục cải chính hộ tịch số 49/TLCCHT ngày 22 tháng 5 năm 2017 của Uỷ ban nhân dân huyện B, tỉnh Bình Dương.

Tòa án không tống đạt trực tiếp được các văn bản tố tụng cho ông K do ông K thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú. Theo kết quả xác minh ngày 09 tháng 8 năm 2018 tại Công an xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương: ông K có đăng ký thường trú tại ấp A, xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương, ông K vẫn còn sinh sống tại địa chỉ trên. Tòa án đã tiến hành tống đạt các văn bản tố tụng cho ông K theo hình thức niêm yết công khai tại nơi cư trú của ông K, trụ sở Ủy ban nhân dân xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương và trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương. Tuy nhiên, ông K không gửi văn bản trình bày ý kiến của mình về việc bà L xin ly hôn và cũng không đến Tòa án để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử.

Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân giữa bà L và ông K ngày 15 tháng 8 năm 2018 tại nơi cư trú được biết: Bà L và ông K thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung, ông K thường xuyên uống rượu, không chăm lo cho gia đình vợ con.

Tại phiên tòa: nguyên đơn vẫn giữ yêu cầu khởi kiện; bị đơn vắng mặt. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu:

Về tố tụng: từ khi thụ lý vụ án đến khi khai mạc phiên tòa sơ thẩm, Thẩm phán, Thư ký đã tiến hành đúng, đầy đủ các thủ tục tố tụng theo quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và không kiến nghị khắc phục hay bổ sung gì khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà và căn cứ kết quả tranh tụng. Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương nhận định:

 [1] Về tố tụng: yêu cầu khởi kiện của bà L về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con; ông K có nơi cư trú tại ấp A, xã C, huyện B, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, xét xử nhưng vẫn vắng mặt, cố tình không đến Tòa án làm việc là chưa thực hiện đúng quy định về quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật. Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để xét xử vắng mặt ông K theo quy định tại các Điều 227 và 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

 [2] Về nội dung: Bà L và ông K tự nguyện kết hôn vào năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện F (nay là huyện B), tỉnh Bình Dương theo Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 07, quyển số 01/2007 ngày 28 tháng 5 năm 2007 nên quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông K là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Bà L yêu cầu ly hôn với ông K vì trong cuộc sống vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn và đã sống ly thân từ năm 2014 cho đến nay. Nguyên nhân do vợ chồng không có tiếng nói chung, ông K thường xuyên uống rượu, không chăm lo cho gia đình vợ con, tình cảm vợ chồng không còn.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương nơi nguyên đơn và bị đơn cư trú được biết: Bà L và ông K thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, vợ chồng không có tiếng nói chung, ông K thường xuyên uống rượu, không chăm lo cho gia đình vợ con.

Xét thấy, bà L và ông K đã phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, không cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình, mục đích sống chung không có ý nghĩa, bà L và ông K không còn sống chung từ năm 2014 nên bà L và ông K không có điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó, yêu cầu khởi kiện của bà L đối với ông K là có căn cứ để chấp nhận và phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về con chung: Bà L và ông K có hai con chung Trần Nguyễn Tuệ M, sinh ngày 28 tháng 8 năm 2009 và Trần Nguyễn Thiện N, sinh ngày 14 tháng 9 năm2011. Khi ly hôn, bà L yêu cầu được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,giáo dục hai con chung. Xét thấy, cháu M và cháu N có nguyện vọng sống chung với bà L và hiện nay bà L đang sinh sống ổn định với bà L. Đồng thời, bà L có công việc ổn định, đủ điều kiện trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục hai con chung. Do đó, tiếp tục giao cháu M và cháu N cho bà L trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi thành niên là chính đáng và phù hợp với quy định tại Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: tại đơn khởi kiện và quá trình giải quyết vụ án, bà L không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

 [3] Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa về tố tụng và nội dung vụ án là có cơ sở nên chấp nhận.

 [4] Về án phí hôn nhân và gia đình: nguyên đơn phải chịu theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào

Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản4 Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;Khoản 1 Điều 56, các Điều 57 và 58 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm2014;

Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thuý L đối với bị đơn ông Trần Quang K về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con.

Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thuý K được ly hôn với ông Trần Quang K.

Về con chung: giao cháu Trần Nguyễn Tuệ M, sinh ngày 28 tháng 8 năm 2009 và Trần Nguyễn Thiện N, sinh ngày 14 tháng 9 năm 2011 cho bà Nguyễn Thị Thuý L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà L không yêu cầu ông K cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, ông Trần Quang K có quyền thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở. Vì quyền và lợi ích hợp pháp của con chung, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình: Bà Nguyễn Thị Thuý L phải chịu300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ hết vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo biên lai thu tiền số AA/2016/0020579 ngày 01 tháng 8 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương.

3. Nguyên đơn có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

215
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 35/2018/HNGĐ-ST ngày 25/10/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:35/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bàu Bàng - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/10/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;