TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 35/2018/DSST ngày 25/07/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Ngày 25 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 104/2018/TLST- HNGĐ, ngày 09 tháng 4 năm 2018 về tranh chấp Hôn nhân và Gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 77/2018/QĐXXST-HNGĐ, ngày 12 tháng 7 năm 2018 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị T - sinh năm 1992 Trú tại: xóm 9 - xã B - huyện Y - tỉnh Nghệ An (có mặt)
- Bị đơn: Anh Trịnh Xuân C - sinh năm 1992 Trú tại: xóm 9 - xã B - huyện Y - tỉnh Nghệ An (vắng mặt lần thứ hai)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn ly hôn đề ngày 04/4/2018, bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị T trình bày: chị và anh Trịnh Xuân C kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có tìm hiểu, tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán và đăng ký kết hôn vào 08/12/2012, tại Ủy ban nhân dân xã Bắc Thành - huyện Yên Thành. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, anh C không lo làm ăn không quan tâm đến vợ con dẫn tình cảm vợ chồng rạn nứt, mâu thuẫn ngày càng căng thẳng. Mặc dù gia đình hai bên đã khuyên nhủ hòa giải nhưng không đem lại kết quả gì. Chị và anh C cắt đứt mọi quan hệ tình cảm và sống ly thân từ đầu năm 2015 cho đến nay. Chị T xác định tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh C.
- Về con chung: Vợ chồng có 01con chung là cháu Trịnh Thị Quỳnh A - sinh ngày 22/11/2012. Nay ly hôn chị có nguyện vọng được nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng. Vì con còn nhỏ, anh C thường xuyên đi làm ăn xa, để con cho ông bà nội thi thoảng anh C mới về thăm con nên thời gian cho việc chăm sóc gần gũi con hằng ngày là hạn chế. Tại phiên tòa chị T cho biết hiện nay chị cũng có làm thêm nghề phụ thu nhập ổn định 4.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng/tháng, hơn nữa bên cạnh mẹ con chị còn có ông bà, anh chị em ruột ở gần luôn hỗ trợ cho chị và con cả vật chất lẫn tinh thần. Chị T đề nghị Tòa xem xét nguyện vọng của chị.
- Về tài sản: Chị Nguyễn Thị T không yêu cầu tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn anh Trịnh Xuân C quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng anh C vẫn không có mặt. Tòa án đã trực tiếp tống đạt giấy triệu tập và các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh C theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh C vẫn không có mặt, vì vậy Tòa án không tiến hành phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải và cũng không lấy lời khai của anh C được.Tuy nhiên qua tài liệu do nguyên đơn cung cấp và qua biên bản xác minh tại xóm, xã thì tình trạng hôn nhân, con chung chưa thành niên giữa chị T và anh C cơ bản đúng như chị T trình bày.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên tòa. Sau khi nghe ý kiến trình bày của chị T tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
1. Về tố tụng:
Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Trong quá trình giải quyết vụ án, toà án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho chị T và anh C, yêu cầu anh, chị có mặt tại Toà án để giải quyết vụ án nhưng anh C không có mặt. Vì vậy Toà án đã lập biên bản theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự, làm cơ sở giải quyết vụ án.
Tòa án Quyết định đưa vụ án ra xét xử, giấy triệu tập đến phiên toà và đã tống đạt hợp lệ cho các đương sự. Tại phiên toà lần thứ nhất ngày 13/6/2018 chị T có mặt, anh C vắng mặt không có lý do, vì vậy Hội đồng xét xử quyết định hoãn phiên toà. Để tiếp tục giải quyết vụ án, Toà án tiếp tục tống đạt các văn bản tố tụng phiên toà lần thứ hai cho các bên đương sự tuy nhiên tại phiên toà hôm nay anh C tiếp tục vắng mặt không có lý do. Như vậy, anh C đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, căn cứ vào khoản 2 điều 227của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt đối với bị đơn.
2. Về nội dung:
- Quan hệ hôn nhân: Xét hôn nhân giữa chị T, anh C là hôn nhân hợp pháp, tuân thủ theo quy định của pháp luật. Song qua xem xét thực tế thì thấy rằng cuộc sống chung của vợ chồng những năm gần đây không được hạnh phúc, mâu thuẫn liên tục xảy ra và đã thực sự căng thẳng, trầm trọng, hai bên đã sống ly thân thời gian khá dài, không còn quan tâm, trách nhiệm gì với nhau nữa. Trên cở sở đó xác định tình cảm vợ chồng không còn gắn kết với nhau, mục đ ích hôn nhân không đạt được, việc chị T yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh C là có căn cứ, cần chấp nhận.
- Quan hệ con chung: Quá trình giải quyết vụ án chị T có nguyện vọng yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng. Việc nuôi con vừa là quyền vừa là nghĩa vụ của các bên vì vậy nguyện vọng của chị T là nguyện vọng chính đáng cần xem xét.
Xét hoàn cảnh hiện tại của anh C hiện nay về mặt thời gian là hạn hẹp không đảm bảo để chăm con. Mặt khác qua xác minh cho thấy thì hiện tại con chung đang ở với ông bà nội vì vợ chồng chị T anh C khi cưới nhau về ở chung với ông bà nội (bố mẹ đẻ anh C), anh C đi làm,thi thoảng về thăm con trong khi con chung còn nhỏ rất cần sự chăm sóc khéo léo của người mẹ do đó anh C không đảm bảo việc gần gũi chăm sóc con chung bằng chị T được. tại phiên tòa chị trình bày chị có làm thêm nghề phụ thu nhập trung bình từ 4.000.000 - 5.000.000 đồng/tháng đủ trang trải cuộc sống cho mẹ con, hơn nữa bên cạnh chị còn có bố mẹ, người thân hỗ trợ cho mẹ con cả vật chất lẫn tinh thần vì vậy cần tiếp tục giao cho chị T nuôi dưỡng đến khi trưởng thành là phù hợp với tình hình thực tế cũng như quy định của pháp luật.
- Quan hệ tài sản: Chị T không yêu cầu tòa án giải quyết nên miễn xét.
*Về án phí: Chị Nguyễn Thị T phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 điều 28; khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; điều 51, 56, 81.82.83 của Luật Hôn Nhân và Gia đình;
- Về hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị T được ly hôn anh Trịnh Xuân C.
-Về con chung: Giao 01 con chung là cháu Trịnh Thị Quỳnh A - sinh ngày 22/11/2012 cho chị Nguyễn Thị T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi trưởng thành.Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con cho anh Trịnh Xuân C.
Anh C không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung, không ai được cản trở.
- Án phí: Căn cứ vào khoản 4, điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí tòa án.
Buộc chị Nguyễn Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, án phí của chị T được tính trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Yên Thành (Biên lai thu tiền số: 0003377, ngày 05 tháng 4 năm 2018), chị T đã nộp đủ án phí.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt chị Nguyễn Thị T, vắng mặt anh Trịnh Xuân C. Tuyên bố để các bên đương sự biết, nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án hợp lệ.
Bản án 35/2018/DSST ngày 25/07/2018 về tranh chấp hôn nhân và gia đình
Số hiệu: | 35/2018/DSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 25/07/2018 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về