Bản án 350/2020/HSST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 350/2020/HSST NGÀY 07/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định. Toà án nhân dân thành phố N, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 337/2020/TLST-HS ngày 17-11-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 337/2020/QĐ-HSST ngày 26-11-2020 đối với bị cáo:

Lương Văn N, sinh năm 1988 tại tỉnh Yên Bái; nơi cư trú: Thôn Yên Thắng, xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Cao Lan; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam;

Con ông Lương Văn Tạy và bà Nguyễn Thị Thịnh; chưa có vợ con; tiền án: Ngày 31-8-2018 Tòa án nhân dân huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 13-5-2011 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm Giáo dục lao động tỉnh Yên Bái thời hạn 02 năm. Ngày 03-9- 2015 Công an huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Ngày 26-12-2017 Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Tân Hương, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái ra quyết định áp dụng hình thức giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15 tháng 8 năm 2020 sau đó chuyển tạm giam đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định; bị cáo có mặt tại phiên toà.

Người làm chứng:

1. Anh Hoàng Khắc T, sinh năm 1962; địa chỉ: Tổ dân phố Bến, thôn Mai Xá, phường Mỹ Xá, thành phố N, tỉnh Nam Định.

2. Anh Trần Thế V, sinh năm 1983; địa chỉ: Tổ dân phố Gôi, thôn Mai Xá, phường Mỹ Xá, thành phố N, tỉnh Nam Định.

Anh Thờm và anh Vũ vắng mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 15-8-2020, Tổ công tác Công an phường M, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 80 đường L, phường T, thành phố N, phát hiện Lương Văn N đi bộ một mình có biểu hiện nghi vấn, nên đã yêu cầu kiểm tra. Quá trình kiểm tra Tổ công tác phát hiện thu giữ trong lòng bàn tay trái của N 01 gói giấy màu trắng, mở kiểm tra bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng (N khai là ma túy). Tổ công tác đã niêm phong gói ma túy đưa N, mời người làm chứng về trụ sở lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, ngoài ra còn tạm giữ của N số tiền 152.000 đồng.

Bản kết luận giám định số 894/GĐKTHS ngày 19-8-2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Vật chứng thu giữ của Lương Văn N được niêm phong gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine, có khối lượng:

0,162 gam (không phẩy một sáu hai gam).

Tại Cơ quan điều tra, Lương Văn N khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mục đích để sử dụng và khai nhận nguồn gốc số ma túy trên như sau: Khoảng 7 giờ 00 phút ngày 15-8-2020, Lương Văn N đi xe khách một mình từ nhà người quen ở Yên Lộc, Ý Yên, Nam Định đến khu vực siêu thị BigC đi xe ôm đến đường P, phường T, thành phố N gặp 01 thanh N không rõ lai lịch mua 01 gói ma túy với giá 100.000 đồng, mua được ma túy, N cầm trong tay trái rồi đi bộ về đến khu vực trước cửa số nhà 80 đường L, phường T thì phát hiện bắt giữ như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 335/CT-VKSTPNĐ ngày 16-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Lương Văn N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà: Bị cáo Lương Văn N xác nhận trong quá trình điều tra, truy tố không bị Cơ quan tiến hành tố tụng ép cung, bức cung hay dùng nhục hình. Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố là đúng và khai nhận biết rõ hành vi cất giữ trái phép ma túy là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng do nghiện ma túy nên đã tàng trữ với mục đích sử dụng cho bản thân. Bị cáo không khai báo thêm tình tiết mới và ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N luận tội và tranh luận: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Vì vậy đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Lương Văn N theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lương Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” - Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: xử phạt bị cáo từ 27 tháng đến 33 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma túy đã thu giữ của bị cáo; trả lại cho bị cáo 152.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Lời khai nhận tội của bị cáo Lương Văn N có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa bị cáo đều thừa nhận hành vi phạm tội của mình, không có sự mâu thuẫn và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác như biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ vật chứng; lời khai của những người làm chứng; bản kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ nên đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 8 giờ 00 phút ngày 15-8-2020, tại khu vực trước cửa số nhà 80 đường L, phường T, thành phố N, Lương Văn N đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,162 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, gây mất trật tự an ninh xã hội trên địa bàn thành phố N, xâm phạm đến chính sạch độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết rõ hành vi tàng trữ ma túy của mình là vi phạm pháp luật, bị Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Như vậy, việc truy tố và đưa ra xét xử bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội.

[3] Các tình tiết Hội đồng xét xử sẽ xem xét khi Quyết định hình phạt đối với bị cáo:

[3.1] Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.2] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[4] Từ những phân tích, đánh giá nêu trên đối với hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo bị cáo và góp phần phòng ngừa chung.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo tàng trữ ma túy với mục đích để sử dụng nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng: 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 894/GĐKTHS là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy. Số tiền 152.000 đồng là tài sản của bị cáo, xét không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

[7] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho Lương Văn N, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N chưa đủ căn cứ kết luận nên tách ra để tiếp tục điều tra, xử lý sau là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo Lương Văn N bị kết án nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

- Tuyên bố bị cáo Lương Văn N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt bị cáo Lương Văn N 27 (hai bẩy) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 15 tháng 8 năm 2020.

2. Xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 gói ma túy trong phong bì niêm phong số 894/GĐKTHS. Trả lại cho bị cáo số tiền 152.000 đồng (một trăm năm mươi hai nghìn đồng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án (vật chứng có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 10 tháng 11 năm 2020) 3. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Lương Văn N phải nộp 200.000 đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Lương Văn N được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành hoặc cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 350/2020/HSST ngày 07/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:350/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;