Bản án 347/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội môi giới mại dâm

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, TP. HÀ NỘI

 BẢN ÁN 347/2019/HSST NGÀY 29/11/2019 VỀ TỘI MÔI GIỚI MẠI DÂM

Ngày 29/11/2019 tại trụ sở Nhà văn hóa tổ 7, phường Giang Biên, Long Biên, Hà Nội xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 327/2019/HSST ngày 08/11/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 344/2019/QĐ-HSST ngày 08/11/2019, Quyết định hoãn phiên tòa số 78/2019/QĐ-HPT ngày 19/11/2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị H, sinh năm:1989; Giới tính: Nữ; HKTT: Sơn Kim, Hương Sơn, Hà Tĩnh; Chỗ ở: Sơn Kim 2, Hương Sơn, Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 02/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Nguyễn Văn T, sinh năm 1963 và con bà Hồ Thị B, sinh năm 1962. Gia đình bị cáo có 03 chị em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền án, tiền sự: Theo danh chỉ bản số 568 ngày 16/9/2019 của Công an quận Long Biên lập và lý lịch địa phương cung cấp: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/9/2019 - Hủy bỏ tạm giữ ngày 26/9/2019. Hiện áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú. (có mặt)

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Họ tên: Trần Thị L, sinh năm 1983; HKTT: Phường Long Biên, Long Biên, Hà Nội. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20h00 ngày 17/9/2019, Tổ công tác Công an phường Ngọc Lâm tiến hành kiểm tra hành chính tại Nhà nghỉ số 4 Ngô Gia Khảm, phường Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội. Tại thời điểm kiểm tra, Tổ công tác đã phát hiện có 02 đôi nam nữ trong phòng 101 và 102 đang có hành vi mua bán dâm gồm: Phòng 101: có Nguyễn Thị H và Hoàng Tuấn H, phòng 102: có Trần Thị L và Nguyễn Quý C.

Tang vật thu giữ: - Tạm giữ của Nguyễn Thị H số tiền: 1.000.000đ (Một triệu đồng), 01 ( Một). điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đỏ.

- Tạm giữ của Trần Thị L 01 ( Một ) điện thoại nhãn hiệu NOKIA RH-130 màu hồng.

- Tạm giữ của Hoàng Tuấn H 01 (Một) vỏ bao cao su DUREX và 01 (Một) bao cao su đã qua sử dụng.

- Tạm giữ của Nguyễn Quý C 01 (Một) vỏ bao cao su DUREX và 01 (Một) bao cao su đã qua sử dụng.

Qua kiểm tra, các đối tượng khai nhận đang mua bán dâm. Số tiền 1.000.000 đồng tại phòng 101 H khai nhận là số tiền bán dâm. Tổ công tác đã niêm phong tang vật rồi đưa các đối tượng về trụ sở làm rõ.

Tại cơ quan điều tra, đối tượng Nguyễn Thị H và Trần Thị L đều thừa nhận hành vi và nội dung vụ việc như sau:

Khoảng 18h30 ngày 17/09/2019, do có nhu cầu mua dâm nên Nguyễn Quý C và Hoàng Tuấn H cùng góp tiền đi mua dâm (mỗi người góp 500.000đ). Trước đây C đã từng mua dâm với Nguyễn Thị H nên có số điện thoại của H. C gọi cho H đặt vấn đề mua dâm, C nói có bạn đi cùng và muốn nhờ H gọi thêm gái bán dâm để bán dâm cho bạn của C. H đồng ý. Khi đó H đang ngồi uống nước cùng L ở vườn hoa Ngọc Lâm, H rủ L đi bán dâm và nói với L là có khách đi “tàu nhanh” (nghĩa là khách mua dâm một lần) với giá 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng)/1 lần. L đồng ý cùng đi bán dâm với H. Một lúc sau, C và Hưng đến vườn H Ngọc Lâm để gặp H và L, tại đây C và H thỏa thuận mua dâm với giá 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng)/1 lần/ 01 người. H đồng ý và bảo C và Hưng đến Nhà nghỉ số 4 Ngô Gia Khảm để thuê phòng nghỉ trước rồi H và L sẽ đến sau. Sau đó, C và Hưng đến thuê phòng 101 và 102 của nhà nghỉ nói trên. Một lúc sau, H và L đến nhà nghỉ gặp C và Hưng. Tại trước cửa phòng 101 của nhà nghỉ, C đưa số tiền 1.000.000đ cho H để mua dâm trong đó 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) là tiền trả công bán dâm cho cả H và L, còn lại 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) là tiền C cho thêm H vì đã gọi L đến bán dâm cho Hưng. Nhận tiền xong, Hưng và H vào phòng 101 còn C và L vào phòng 102 để thực hiện việc mua bán dâm. Khi hai đôi nam nữ nói trên đang quan hệ tình dục thì Tổ công tác Công an phường Ngọc Lâm đến kiểm tra phát hiện, lập biên bản và đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở để làm rõ.

Tại bản Cáo trạng số 357/CT-VKS ngày 13/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã truy tố Nguyễn Thị H về tội “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo theo đúng như nội dung Bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận tại phiên tòa như sau: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Thị H đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Môi giới mại dâm”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm s, i khoản 1 và khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 47 của BLHS; Điều 106 BLTTHS, Về hình phạt: Đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 6 - 10 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án; Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền; Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy vật chứng là 02 vỏ bao cao su DUREX và 02 bao cao su đã qua sử dụng; Đề nghị sung quỹ Nhà nước số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) đồng thu giữ của H là tiền liên quan đến hành vi phạm tội; Đề nghị sung quỹ nhà nước 01 (Một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đỏ thu giữ của bị cáo là phương tiện phạm tội. Trả lại chị Trần Thị L 01 (Một) điện thoại nhãn hiệu NOKIA RH-130 màu hồng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Nói lời sau cùng bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là sai, vi phạm pháp luật, mong Hội đồng xét xử mở lượng kHn hồng cho bị cáo mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an quận Long Biên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã khai báo thành khẩn và không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Về hạnh vi của bị cáo: Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản xử phạt vi phạm hành chính, biên bản tạm giữ đồ vật, các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dụng bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố, HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 20h00 ngày 17/9/2019 tại Nhà nghỉ số 4 phố Ngô Gia Khảm, phường Ngọc Lâm, quận Long Biên, Hà Nội, Nguyễn Thị H có hành vi môi giới để gái bán dâm Trần Thị L bán dâm cho Nguyễn Qúy C, H được hưởng lợi 500.000đ từ việc môi giới bán dâm. Khi L và C đang có hành vi mua bán dâm thì bị tổ công tác đội CSHS- công an quận Long Biên, Hà Nội phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Hành vi của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội Môi giới mại dâm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 328 của Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên đã đưa ra các chứng cứ buộc tội và truy tố bị cáo về tội: “Môi giới mại dâm” theo khoản 1 Điều 328 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm các giá trị đạo đức của xã hội, xâm phạm trật tự công cộng được Bộ luật hình sự bảo vệ. HĐXX xét thấy cần giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cũng như phòng ngừa chung.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hính sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn nhận tội, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có xác nhận của UBND xã nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về quyết định hình phạt: Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, HĐXX thấy cần áp dụng một hình phạt tù trong khung hình phạt, cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[7] Về xử lý vật chứng: Cần áp dụng điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu, tiêu hủy vật chứng là 02 vỏ bao cao su DUREX và 02 bao cao su đã qua sử dụng;

- Sung quỹ nhà nước số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) đồng thu giữ của H là tiền liên quan đến hành vi phạm tội;

- Sung quỹ nhà nước 01 ( Một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đỏ thu giữ của bị cáo là phương tiện phạm tội .

- Trả lại chị Trần Thị L 01 (Một) điện thoại nhãn hiệu NOKIA RH-130 màu hồng do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đề xuất của Viện kiểm sát tại phiên tòa về xử lý vật chứng của vụ án có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử

[8] Về các vấn đề khác:

Đối với hành vi bán dâm của Nguyễn Thị H, Trần Thị L, Công an quận Long Biên đã căn cứ khoản 1 điều 23 Nghị định số 167/2013 ngày 12/11/2013 ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 200.000đ/mỗi người và đối với hành vi mua dâm của Nguyễn Quý C và Hoàng Tuấn H, Công an quận Long Biên đã căn cứ khoản 1 điều 22 Nghị định số 167/2013 ngày 12/11/2013 ra Quyết định xử phạt hành chính bằng hình thức phạt tiền 750.000đ/ mỗi người là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

Đối với chủ Nhà nghỉ số 4 phố Ngô Gia Khảm: Đăng kí kinh doanh mang tên Tô Phi Giao, sinh năm 1947. Quá trình kinh doanh do sức khỏe yếu nên ông Giao đã bàn giao việc quản lí nhà nghỉ cho con trai ruột là anh Tô Hoài Giao, sinh năm 1973. Ngày 17/9/2019 anh Giang không biết việc mua, bán dâm giữa H, L và C, Hưng do vậy Cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lí là có căn cứ, đúng pháp luật.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST, người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội Môi giới mại dâm.

1. Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 328; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự:

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị H 8 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 17/9/2019 đến ngày 26/9/2019.

2. Về tang vật: Áp dụng khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu, tiêu hủy 02 vỏ bao cao su DUREX và 02 bao cao su đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 ( Một) điện thoại nhãn hiệu OPPO màu đỏ thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị H theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/11/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên và số tiền 1.000.000đ (Một triệu đồng) theo Giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 7/11/2019 của Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên.

- Trả lại chị Trần Thị L 01 (Một) điện thoại nhãn hiệu NOKIA RH-130 màu hồng do không liên quan đến hành vi phạm tội theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07 /11/2019 tại Chi cục thi hành án dân sự quận Long Biên 3. Án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng chẵn) án phí Hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền quyền kháng cáo phần bản án quyết định liên quan đến quyền lợi nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 347/2019/HS-ST ngày 29/11/2019 về tội môi giới mại dâm

Số hiệu:347/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;