Bản án 347/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 347/2019/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 18 tháng 4 năm 2019, tại phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 1245/2018/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 10 năm 2018 về việc “Tranh chấp về ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 79/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 66/2019/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2019 giữa:

Nguyên đơn: Ông Võ Văn B, sinh năm: 1988.

Địa chỉ:, phườngA, quận T, Tp. Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1984.

Địa chỉ:, xã A, huyện C, Tp. Hồ Chí Minh.

(ông B và bà H vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn ngày 14/9/2018, bản tự khai và biên bản về việc không tiến hành hòa giải được – nguyên đơn ông Võ Văn B trình bày: ông và bà Nguyễn Thị H chung sống với nhau từ năm 2014, không có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, không có gì xảy ra. Tuy nhiên, vào năm 2016 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, ông và bà H thường xuyên cãi vã nhau, bà H không quan tâm đến cuộc sống gia đình, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Nay tình cảm đối với nhau không còn, ông B yêu cầu được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.

Về con chung: Ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị H có 01 con chung tên Võ Minh H, sinh ngày: 15/11/2015. Sau khi ly hôn, ông B yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Huy và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: ông Võ Văn B xác nhận không có.

Bà Nguyễn Thị H vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của bà H.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án như sau: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Võ Văn B đối với bà Nguyễn Thị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Ông Võ Văn B nộp đơn xin ly hôn đối với bà Nguyễn Thị H. Bà Nguyễn Thị H hiện đang cư trú tại huyện Bình Chánh. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.

[2] Bà Nguyễn Thị H đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị H theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Ông Võ Văn B có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông B theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời bà Nguyễn Thị H đến Tòa án để giải quyết vụ án tranh chấp về ly hôn giữa ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị H nhưng bà H không đến Tòa án để giải quyết. Vì vậy, bà Nguyễn Thị H tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình. Do đó, bà Nguyễn Thị H phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4] Về quan hệ vợ chồng: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 24 do Ủy ban nhân dân phường A, quận C, thành phố Cần Thơ cấp ngày 19/4/2016 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị H là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Ông B xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng giữa ông và bà H không thể hàn gắn được, nên ông yêu cầu được ly hôn với bà H để mỗi người tạo dựng cuộc sống riêng. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trên hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bởi lẽ, theo lời trình bày của ông B thì giữa ông và bà H bất đồng quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp, mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng thường xuyên cãi vã, bà H đã bỏ nhà đi từ năm 2016, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Như vậy vợ chồng không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không cùng nhau vun đắp hạnh phúc gia đình. Mặt khác, trong quá trình hòa giải tại Tòa, bà H cũng không đến Tòa án tham gia tố tụng theo giấy triệu tập để Tòa án hòa giải, động viên hai bên đoàn tụ, hàn gắn tình cảm vợ chồng, điều này chứng tỏ giữa hai người đã không còn tình cảm và đều không có thiện chí để đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Võ Văn B đối với bà Nguyễn Thị H.

[6] Về con chung: Ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị H có 01 con chung tên Võ Minh H (nam), sinh ngày: 15/11/2015. Sau khi ly hôn, ông B yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Huy và không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con. Do bà H vắng mặt không thể hiện ý kiến, yêu cầu của bà về con chung giữa bà và ông B nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết vấn đề con chung theo yêu cầu của ông B, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu nuôi con của ông B, giao trẻ Võ Minh H (nam), sinh ngày: 15/11/2015 cho ông B trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành và ghi nhận sự tự nguyện của ông B không yêu cầu bà H cấp dưỡng nuôi con.

[7] Về tài sản chung và nợ chung: Ông B xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí: Ông Võ Văn B phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

 Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 91, Điều 203, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Võ Văn B đối với bà Nguyễn Thị H.

Ông Võ Văn B được ly hôn với bà Nguyễn Thị H.

Giấy chứng nhận kết hôn số 24 do Ủy ban nhân dân phường A, quận C, thành phố T cấp ngày 19/4/2016 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Ông Võ Văn B và bà Nguyễn Thị H có 01 con chung tên Võ Minh H (nam), sinh ngày: 15/11/2015. Giao trẻ H cho ông B trực tiếp nuôi dưỡng cho đến tuổi trưởng thành, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với bà H cho đến khi ông B có yêu cầu.

Bà Nguyễn Thị H có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích con chung, khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con sau này theo quy định tại Điều 83, Điều 84 và Điều 116 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người đó theo quy định tại Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Ông B xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Ông Võ Văn B chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) mà ông B đã nộp theo biên lai thu số 0006052 ngày 26/9/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh. Ông B đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 347/2019/HNGĐ-ST ngày 18/04/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:347/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;