Bản án 343/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 343/2021/HNGĐ-ST NGÀY 11/05/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

 Ngày 11 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 253/2020/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 3 năm 2020 về “tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2021/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kim Y, sinh năm: 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: 115K2/7 BĐ, Phường O, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Nguyễn Hoàng N, sinh năm: 1976 (vắng mặt) Địa chỉ thường trú: 24/2B NNT, Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

Địa chỉ cư trú: 141/28 LHP, Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo Đơn khởi kiện đề ngày 20/12/2019 và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Kim Y trình bày: Bà và ông Nguyễn Hoàng Nh chung sống có đăng ký kết hôn vào năm 2001 tại Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do ông Nh không cùng bà san sẻ khó khăn, vợ chồng bất đồng quan điểm trong nhiều vấn đề, gia đình không hạn phúc. Bà Y đã nhiều lần khuyên ông Nh sửa đổi, cùng bà chăm sóc con cái tuy nhiên không đạt kết quả. Từ năm 2015, bà và ông Nh đã sống ly thân, bà Y đưa con về nhà cha mẹ ở Phường O, Quận H sinh sống. Do tình cảm vợ chồng không còn, gia đình không hạnh phúc nên bà yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Hoàng Nh.

Về con chung: Bà và ông Nh có 02 con chung tên Nguyễn Thị Hoàng M sinh ngày 11/5/2001 (đã thành niên) và Nguyễn Hoàng T sinh ngày 29/3/2009. Do con chung Nguyễn Hoàng T chưa thành niên và đang sống cùng với bà nên sau khi ly hôn bà Y yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ T, không yêu cầu ông Nh cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Trong thời gian chung sống bà và ông Nh không có tài sản chung và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn đến Tòa án để tự khai, hòa giải và tham gia phiên tòa nhưng ông Nh không đến Tòa án theo giấy triệu tập và cũng không có bất kỳ văn bản nào phản hồi yêu cầu khởi kiện của bà Y nên Tòa án không thể thu thập được lời khai của ông Nh.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn - bà Nguyễn Thị Kim Y có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa Bị đơn – ông Nguyễn Hoàng Nh vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân Quận 8 phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Việc chấp hành pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa: Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015 về xét xử sơ thẩm vụ án.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án: Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định pháp luật. Riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định tại Điều 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Về nội dung vụ án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Bà Nguyễn Thị Kim Y và ông Nguyễn Hoàng Nh có đăng ký kết hôn, bà Y yêu cầu ly hôn với ông Nh, xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về “tranh chấp ly hôn”.

Hiện nay, bị đơn là ông Nguyễn Hoàng Nh hiện đang cư trú tại Quận 8 (Theo kết quả xác minh của Công an Phường P, Quận H) nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Kim Y có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt bà Y.

Bị đơn ông Nguyễn Hoàng Nh, Tòa án đã triệu tập tham gia phiên tòa hợp lệ lần thứ hai nhưng ông Nh vắng mặt không lý do. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành mở phiên tòa xét xử vắng mặt ông Nh.

[3] Về yêu cầu của các đương sự:

- Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ theo Trích lục kết hôn thể hiện bà Nguyễn Thị Kim Y và ông Nguyễn Hoàng Nh Giấy đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh Số: 09 ngày 12/02/2001, cùng lời khai của bà Y về việc các đương sự tự nguyện kết hôn với nhau, nên đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa bà Y và ông Nh là hôn nhân hợp pháp.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Y: Trong quá trình chung sống, bà Y và ông Nh xảy ra mâu thuẫn do vợ chồng không có sự cảm thông, chia sẻ với nhau; ông Nh không quan tâm, chăm sóc vợ con. Hai bên đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn, tìm tiếng nói chung nhưng không đạt được kết quả mà tình trạng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng hơn. Bà Y và ông Nh đã sống ly thân từ năm 2015 đến nay. Bà Y xác định vợ chồng không có khả năng hàn gắn đoàn tụ, không thể tiếp tục duy trì cuộc sống hôn nhân với ông Nh.

Hội đồng xét xử xét thấy, hôn nhân chỉ đạt được mục đích trên cơ sở yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ các công việc trong gia đình, đồng thời vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau. Bà Y và ông Nh đã không tôn trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Mặt khác, Tòa án đã triệu tập ông Nh đến Tòa để trình bày ý kiến tự khai, tổ chức phiên hòa giải để các bên có điều kiện hàn gắn đoàn tụ gia đình. Tuy nhiên, trong suốt quá trình giải quyết vụ án ông Nh không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án mà không có lý do chính đáng. Điều này cho thấy ông Nh đã từ bỏ quyền lợi của mình, không muốn hòa giải hàn gắn đoàn tụ gia đình. Do đó, việc chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Y là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Về con chung: Bà Y và ông Nh có 02 con chung tên Nguyễn Thị Hoàng M sinh ngày 11/5/2001 (đã thành niên) và Nguyễn Hoàng T sinh ngày 29/3/2009. Bà Y yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung chưa thành niên là Nguyễn Hoàng T vì trẻ do bà chăm sóc nhỏ đến nay và trẻ hiện đang sống cùng bà. Bà Y không yêu cầu ông Nh cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy, việc giao con chung cho ai trực tiếp nuôi dưỡng là căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Theo đơn xác nhận của Công an phường O, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh ngày 19/3/2021 thể hiện trẻ Nguyễn Hoàng T đang sống cùng bà Y tại địa chỉ 115K2/7 BĐ, Phường O, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh và trẻ có ý kiến muốn được sống cùng với mẹ. Hơn nữa, trong suốt quá trình tố tụng ông Nh không có bất kỳ ý kiến nào phản hồi về yêu cầu nuôi con của bà Y. Do đó, việc giao trẻ Nguyễn Hoàng T cho bà Y trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở, đảm bảo quyền lợi cho trẻ và phù hợp với quy định pháp luật tại khoản 1, 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà Y không yêu cầu ông Nh cấp dưỡng nuôi con, nên không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Y xác định bà và ông Nh không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà Y phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 2 Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 về án phí, lệ phí Tòa án Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Kim Y về việc xin ly hôn với ông Nguyễn Hoàng Nh.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Kim Y được ly hôn với ông Nguyễn Hoàng Nh (Giấy chứng nhận kết hôn số 09 do Ủy ban nhân dân Phường 14, Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh cấp ngày 12/02/2001).

- Về con chung: Bà Y và ông Nh có 02 con chung tên Nguyễn Thị Hoàng M sinh ngày 11/5/2001 (đã thành niên) và Nguyễn Hoàng T sinh ngày 29/3/2009. Giao cho bà Nguyễn Thị Kim Y trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Hoàng T. Ghi nhận việc bà Y không yêu cầu ông Nh cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Hoàng Nh có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích của trẻ, theo yêu cầu của cha, mẹ, người thân thích, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em hoặc Hội Liên hiệp phụ nữ, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Bà Y xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) bà Nguyễn Thị Kim Y phải chịu, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí bà Y đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0044042 ngày 09/3/2020 của Chi cục thi hành án dân sự Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Y đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

3. Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Kim Y, ông Nguyễn Hoàng Nh được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

158
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 343/2021/HNGĐ-ST ngày 11/05/2021 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:343/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;