TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 34/2024/HS-ST NGÀY 05/02/2024 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 05 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 05/2024/HSST ngày 04 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2024/QĐXX-HSST ngày 22 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Ngọc Vân A, sinh năm 1X; tại Thanh Hóa; ĐKHKT: xã Tả T, Thanh Trì, Hà Nội; Nơi cư trú: Chung cư 360 G, phường P, quận Thanh Xuân, Hà Nội; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Con ông: Phạm Ngọc S và bà: Nguyễn Thị Thu T; Có chồng: Chu Quý D và 01 con; Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 460 do Công an quận Thanh Xuân lập ngày 25/10/2023; Bị can bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/10/2023, hiện đang tạm giam tại Trại giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Nguyễn Hương T, sinh năm 2001; Trú tại: Chung cư 360 G, phường P, quận Thanh Xuân, Hà Nội. (Xin vắng mặt).
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Phạm Văn T1, sinh năm 1989, Trú tại: khu nhà ở H, phường Y, quận H, thành phố Hà Nội; (Vắng mặt).
2. Bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1960, Trú tại: đường P, phường M, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội; (Vắng mặt).
3. Anh Trần Văn X, sinh năm 1992, Trú tại: phố Đ, phường V, quận H, thành phố Hà Nội; (Vắng mặt).
4. Chị Nguyễn Thị Thanh H, sinh năm 1995, Trú tại: phường H, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng; (Vắng mặt).
5. Chị Ngô Khánh L, sinh năm 1998, Trú tại: phường Đ, quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội; (Có mặt).
6. Chị Nguyễn Ngọc Thảo H, sinh năm 2001, Trú tại: chung cư 360 G, phường P, quận Thanh Xuân, Hà Nội; (Vắng mặt).
7. Ông Phạm Ngọc S, sinh năm 1960, Trú tại: xã Tả T, Thanh Trì, Hà Nội. (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Ngọc Vân A và chị Nguyễn Hương T (sinh năm 2001, HKTT: Lê Mao, TP Vinh, Nghệ An) cùng thuê trọ tại chung cư 360 G, P, Thanh Xuân, Hà Nội. Ngày 14/10/2023, A thấy đăng ký xe máy Honda Wave 37B3-X mang tên chị T để ở phòng khách nên nảy sinh ý định trộm cắp giấy đăng ký xe máy trên để cầm cố lấy tiền tiêu xài. A lấy đăng ký xe trên và bỏ vào trong túi xách của mình nhưng do bận việc nên chưa đi cầm cố được. Ngày 16/10/2023, A mượn chị T chiếc xe máy Honda Wave BKS 37B3-105.X để đi làm. Chị T đồng ý. Khoảng 7h45’ cùng ngày, chị T cùng A xuống hầm gửi xe B2 để cho A mượn xe. Tại đây, chị T đưa xe cho A kèm theo 01 chìa khóa xe, 01 thẻ gửi xe. Sau đó, A điều khiển chiếc xe trên đến công ty tại Lê Quang Đạo- Nam Từ Liêm- Hà Nội. Do bị Nguyễn Thị Thanh H (sinh năm: 1995, trú tại: H, Lê Chân, Hải Phòng) và chị Ngô Khánh L (sinh năm: 1998, trú tại: Đ, Hai Bà Trưng, Hà Nội) là bạn xã hội gọi điện đòi nợ nên A nảy sinh ý định cầm cố chiếc xe của chị T để trả nợ. A mang chiếc xe máy trên cùng giấy tờ xe đã trộm cắp trước đó đến cửa hàng cầm đồ của anh Phạm Văn T (sinh năm: 1989, trú tại: Y, H, Hà Nội) tại số 48 ngõ 63 P, M, Nam Từ Liêm, Hà Nội. Tại đây, A gặp quản lý cửa hàng là anh Trần Văn X (sinh năm: 1992, trú tại: Hải Châu, Hải Hậu, Nam Định) để cầm cố chiếc xe trên lấy số tiền là 10.000.000 đồng. Anh X thông báo cho anh T1 và được anh T1 đồng ý. Anh T1 đã chuyển khoản 10.000.000đồng từ tài khoản số 091196266 ngân hàng MBbank vào số tài khoản 9999XX ngân hàng MB Bank của A. Lúc này, tài khoản của A vẫn còn 500.000đồng, tổng số tiền trong tài khoản là 10.500.000đồng. Sau đó, A bàn giao xe, giấy tờ xe, chìa khóa xe, căn cước công dân mang tên Phạm Ngọc Vân A cho anh X, anh X viết hợp đồng cầm đồ cho A, mỗi người giữ một bản. Sau khi nhận được tiền, A đã trả nợ cho Chị L số tiền 6.480.000đồng, trả cho chị H số tiền 1.000.000đồng, số tiền còn lại A chuyển trả nợ cho chị Nguyễn Ngọc Thảo H (sinh năm: 2001, trú tại: P, Thanh Xuân, Hà Nội) số tiền 1.000.000 đồng và chuyển cho chị Nguyễn Thị Phương Hoa (sinh năm: 1992, trú tại: quận 12, TP. Hồ Chí Minh) số tiền 1.300.000đồng, chuyển cho chị T 600.000 đồng. Đến tối ngày 16/10/2023, A về nhà gặp chị T và thú nhận đã cầm cố chiếc xe máy trên. Chị T yêu cầu A phải lấy xe về ngay nhưng do không có tiền nên ngày 17/10/2023, chị T đưa A đến CAP P trình báo sự việc.
Cơ quan công an đã thu giữ của anh X:
- 01 chứng nhận đăng ký xe máy số 370X do CA tỉnh Nghệ An cấp cho Nguyễn Hương T;
- 01 hợp đồng cầm đồ mã giao dịch CS – 614;
- 01 căn cước công dân mang tên Phạm Ngọc Vân A số 038X;
- 01 xe máy Honda Wave màu đen – bạc BKS: 37B3 – X có số khung RLHJA3922MY109509, số máy JA39E2226799 (xe đã qua sử dụng) và chìa khóa xe.
Thu giữ của Phạm Ngọc Vân A:
- 01 hợp đồng cầm đồ ngày 16/10/2023 giữa Phạm Ngọc Vân A và Trần Văn X;
- 01 điện thoai di động nhãn hiêu Xiaomi màu đen đã qua sử dụng, Imei 869808033026911, Imei: 869808033026X lắp sim số 097X.
Thu giữ của chị Nguyễn Hương T:
- 01 thẻ gửi xe máy tháng số 4315 của tòa Imperia Plaza.
Tại cơ quan công an, Phạm Ngọc Vân A khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Tại bản Kết luận định giá số 214 ngày 23/10/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 xe máy Honda Wave alpha màu đen – bạc dung tích 109cc BKS: 37B3 –Xtrị giá 15.000.000 đồng.
Đối với hành vi trộm cắp 01 đăng ký xe máy số 37004736 mang tên Nguyễn Hương T của A. Do đây là không có giá trị nên cơ quan điều tra – Công an quân Thanh Xuân không xử lý.
Đối với 01 xe máy Honda Wave màu đen – bạc BKS: 37B3 – X có số khung RLHJA3922MY109509, số máy JA39E2226799 (xe đã qua sử dụng); 01 chứng nhận đăng ký xe máy số 370X do CA tỉnh Nghệ An cấp cho Nguyễn Hương T và 01 thẻ gửi xe máy tháng số 4315 của tòa Imperia Plaza, quá trình điều tra xác định chiếc xe trên có chủ xe là Nguyễn Hương T ( lý lịch như trên), không có trong dữ liệu xe vật chứng. Ngày 30/11/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra- Công an quận Thanh Xuân đã ra Quyết định trao trả lại tài sản trên cho chị T. Chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu khác.
Anh Nguyễn Văn X khai: chiều ngày 14/10/2023, A có liên hệ hỏi về việc cầm cố đăng ký xe máy thì anh X báo giá nếu đúng là chủ tài sản thì được khoảng 1.500.000đồng - 2.000.000đồng. Khoảng 9h40’ ngày 16/10/2023, anh X đang ở cửa hàng cầm đồ tại P, M, Nam Từ Liêm, Hà Nội thì A điều khiển 01 xe máy Honda Wave màu đen – bạc BKS: 37B3 – X có số khung RLHJA3922MY109509, số máy JA39E2226799 và mang theo đăng ký xe để cầm cố. A nói nguồn gốc số tài sản trên là của em A cần tiền nên nhờ A đi cầm cố hộ nên anh X tin tưởng. Anh X không biết tài sản trên là do A phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý.
Anh Phạm Văn T khai: cửa hàng cầm đồ tại P, M, Nam Từ Liêm, Hà Nội là của anh T1 cùng chung sở hữu với bà Nguyễn Thị D (sinh năm:
1960, trú tại: Nam Từ Liêm, Hà Nội) theo giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 01K8022120 do phòng tài chính kế toán quận Nam Từ Liêm cấp. Ngày 16/10/2023, khi anh T1 không ở cửa hàng thì có anh X là quản lý cửa hàng gọi điện đến thông báo có A muốn cầm cố 01 xe máy Honda Wave màu đen – bạc BKS: 37B3 – X có số khung RLHJA3922MY109509, số máy JA39E2226799. Anh T1 dặn anh X kiểm tra rõ thông tin khách hàng và chất lượng xe. Sau đó, anh T1 đồng ý cho anh X cầm cố chiếc xe trên với giá 10.000.000 đồng, anh T1 đã chuyển khoản số tiền trên cho A. Anh T1 và bà Dỡ không biết tài sản trên là do A phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý. Bà Dỡ và anh T1 có yêu cầu A phải bồi thường cho anh T1 số tiền 10.000.000 đồng.
Số tiền 10.000.000 đồng có được sau khi cầm cố chiếc xe máy Honda Wave màu đen – bạc BKS: 37B3 – X có số khung RLHJA3922MY109509, số máy JA39E2226799 của chị Nguyễn Hương T, A khai đã trả nợ cho chị Ngô Khánh L số tiền 6.480.000 đồng, trả cho chị Nguyễn Thị Thanh H số tiền 1.000.000 đồng, trả nợ cho chị Nguyễn Ngọc Thảo H số tiền 1.000.000 đồng, trả nợ cho chị Nguyễn Thị Phương Hoa số tiền 1.300.000 đồng, trả nợ cho chị Nguyễn Hương T 600.000 đồng (trong đó có 500.000 đồng là tiền riêng của A). Quá trình làm việc tại cơ quan điều tra, Chị L, chị H, chị H2, chị H3, chị T đều khai nhận đúng là ngày 16/10/2023 A có trả nợ đúng số tiền như trên. Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tiến hành sao kê các số tài khoản liên quan, kết quả trùng khớp với lời khai của A và những người liên quan khác. Chị L, chị H, chị H2, chị H3, chị T không biết và không liên quan đến hành vi phạm tội của A và không đồng ý giao nộp lại số tiền A đã trả nợ do đây là số tiền A đã vay và phải có trách nhiệm trả nợ cho những người liên quan trên.
Ngày 4/11/2023, ông Phạm Ngọc S (sinh năm: 1970, trú tại: Vĩnh Lộc, Thanh Hóa) đã giao nộp số tiền 10.000.000 đồng cho cơ quan điều tra để đền bù thiệt hại cho bà Dỡ.
Đối với 01 điện thoai di động nhãn hiệu Xiaomi màu đen đã qua sử dụng, Imei 869808033026911, Imei: 869808033026X lắp sim số 0975242X A khai chiếc điện thoại trên để sử dụng liên lạc hàng ngày. Cơ quan điều tra đã chuyển đến chi cục thi hành án dân sự quận Thanh Xuân để xử lý theo quy định của pháp luật.
Tại bản cáo trạng số 05/CT-VKSTX ngày 29/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân đã truy tố Phạm Ngọc Vân A về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự 2015.
Tại phiên tòa, Bị cáo Phạm Ngọc Vân A vẫn giữ nguyên lời khai, thừa nhận nội dung cáo trạng, tội danh mà VKS truy tố là đúng. Bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, đề nghị Toà án cho bị cáo được sự khoan hồng của pháp luật.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là chị Ngô Khánh L giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra và không có ý kiến gì.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt Phạm Ngọc Vân A mức án từ 06 đến 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Trả lại cho anh Phạm Văn T số tiền 10.000.000 đồng Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động thu giữ của bị cáo.
Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì nên không xét. Trong lời nói sau cùng, bị cáo Phạm Ngọc Vân A đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra công an quận Thanh Xuân, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 16/10/2023, tại hầm gửi xe chung cư 360 G, P, Thanh Xuân, Hà Nội, Phạm Ngọc Vân A đã có hành vi mượn 01 xe máy Honda Wave màu đen – bạc BKS:
37B3 – X (số khung RLHJA3922MY109509, số máy JA39E2226799) của chị Nguyễn Hương T để đi làm. Sau đó cần tiền trả nợ nên A đã cầm cố chiếc xe cho anh Nguyễn Văn X với giá 10.000.000 đồng và không có khả năng trả lại tài sản. Giá trị tài sản A chiếm đoạt là 15.000.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tội danh và hình phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào quyền sở hữu đối với tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang cho người dân. Bị cáo đã lợi dụng lòng nhân ái và lòng tin của bạn bè để chiếm đoạt tài sản của họ. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật nhưng vì mục đích cá nhân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, thể hiện sự coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải xử nghiêm bị cáo bằng pháp luật hình sự mới đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung đối với loại tội này.
[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.
Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.
Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, có thái độ ăn năn hối cải, “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”, đã tác động gia đình “tự nguyện bồi thường thiệt hại” cho người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường dân sự nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 cho bị cáo.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[5] Về bồi thường dân sự và các vấn đề khác:
Người bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì nên không xem xét.
Đối với số tiền 10.000.000 đồng là số tiền anh Phạm Văn T đã chuyển khoản cho bị cáo khi cầm cố chiếc xe máy trên. Anh T1 không biết chiếc xe máy do bị cáo phạm tội mà có, anh T1 và bà Dỡ yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền này cho anh T1 nên HĐXX chấp nhận. Bị cáo đã tác động gia đình nộp số tiền 10.000.000 đồng để khắc phục bồi thường cho anh T1 nên ghi nhận.
Đối với 01 điện thoai di động nhãn hiệu Xiaomi màu đen đã qua sử dụng, Imei 869808033026911, Imei: 869808033026X lắp sim số 0975242X thu giữ của bị cáo. Bị cáo dùng để liên lạc cá nhân, không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
Đối với 02 căn cước công dân thu giữ của bị cáo là giấy tờ tuỳ thân nên cần trả lại cho bị cáo.
[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[7] Về quyền kháng cáo: Người tham gia tố tụng có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo: Phạm Ngọc Vân A phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
- Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt: Phạm Ngọc Vân A 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 17/10/2023.
Trả cho anh Phạm Văn T số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) đang được gửi tại tài khoản của Kho bạc nhà nước quận Thanh Xuân, theo Giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 15 tháng 12 năm 2023, nộp vào tài khoản số 3949.0.9051813.00000 của Công an quận Thanh Xuân.
- Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:
Trả lại cho bị cáo 01 (Một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, màu đen đã qua sử dụng, số Imei 1: 869808033026911, Imei 2: 869808033026X, lắp sim số 097X.
Hiện đang lưu giữ tại kho của Chi cục thi hành án dân sự quận Tanh Xuân theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 12 tháng 01 năm 2024.
Trả lại cho bị cáo 02 (Hai) căn cước công dân.
- Áp dụng Điều 136; Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cùng danh mục kèm theo.
Bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm. Án xử công khai sơ thẩm.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 34/2024/HS-ST về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 34/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Thanh Xuân - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/02/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về