TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 34/2021/HSST NGÀY 26/08/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 26 tháng 8 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 36/2021/TLST-HS, ngày 06/8/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2021/QĐXXST-HS, ngày 11/8/2021 đối với bị cáo:
ĐẶNG VĂN G, tên gọi khác: Không; sinh ngày 01/01/1973, tạiThái Nguyên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay : Tô dân phô GS, thị trấn GT, huyên PL, tỉnh Thái Nguyên ; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Tiện và bà Đao Thị Hồng; vơ, con chưa co.
Tiền án: Có 02 tiên an:
- Năm 2010 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên, xử phạt G 24 tháng tù về tội “Đánh bạc”.
- Năm 2013, bị Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên , xử phạt G 09 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 29/4/2020. Bị cáo phạm tội lần này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”.
- Tiền sự: Không.
Nhân thân:
- Năm 1990, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Thái xử phạt 03 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.
- Năm 1994, bị Tòa án nhân dân tối cao xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tông hơp 03 năm tu tai ban án năm 1990 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Thái, buôc bi cao phai châp hanh hinh phat chung cho ca 02 bản án là 05 năm tu.
- Năm 1996, bị Tòa án nhân dân huyện Phú Lương, tỉnh Bắc Thái xử phạt 20 tháng tù về tội “Tổ chức dùng chất ma túy”.
- Năm 2002, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt 45 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Năm 2008, bị UBND huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên áp dụng biện pháp chữa bệnh bắt buộc thời hạn 12 tháng.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/4/2021 cho đên nay , hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên, (có mặt).
* Người bào chữa cho bị cáo do Đoàn Luật sư Thái Nguyên cử: Luật sư Nguyễn Văn T, Văn phòng Luật sư AT, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Thái Nguyên, (có mặt).
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1967, trú tai: Xóm 9, xã CL, huyên PL, tỉnh Thái Nguyên, (văng măt).
* Người chứng kiến:
1. Bà Vũ Kim T , sinh năm 1966, trú tại: Xóm BG, xã SC, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên, (văng măt).
2. Chị Trần Thị Th , sinh năm 1976, trú tại: Xóm 9, xã CL, huyên PL, tỉnh Thái Nguyên, (văng măt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20 giờ 45 phút ngày 14/4/2021,Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện Đặng Văn G, sinh năm 1973, trú tại tổ dân phố GS, thị trấn GT, huyện PL, tỉnh Thái Nguyên và Nguyễn Thị L, sinh năm 1967, trú tại xóm 9, xã CL, huyên PL đang dừng đỗ xe mô tô biên kiêm soat 20M8-5031ở ven đương t ại xóm BG, xã SC, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên có biểu hiện liên quan đến ma túy, nên đa kiểm tra. G khai nhận đang cất giấu ma túy trên người, đồng thời lấy từ trong túi quần bên trái phía trước G đang mặc ra 01 túi ni lon màu đen, bên trong chứa 05 túi ni lon màu trắng, bên trong mỗi túi đều chứa các cục chất bột màu trắng, tổ công tác tiến hành niêm phong trong bì ký hiệu G. Ngoài ra, còn thu giữ của G 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, vỏ màu xanh đen, niêm phong trong bì ký hiệu C. Kiểm tra Nguyễn Thị L không phát hiện thu giữ gì liên quan đến ma túy, tạm giữ của L 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ màu đen, niêm phong bì ký hiệu D; 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen BKS 20M8-5031, số khung: RLCS5C630AY331384, số máy: 5C 63-331447 và chiêc02 mũ bảo hiểm.
Ngày 15/4/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành khám xét chỗ ở của G, tại tổ dân phố GS, thị trấn GT, huyện PL và chỗ ở của L tại xóm 9, xã CL, huyên PL, không phát hiện thu giữ gì.
Mở niêm phong cân xác định khối lượng, lấy mẫu gửi giám định đối với số vật chứng thu giữ của G, kết quả: Số chất bột màu trắng trong niêm phong G có khối lượng 169,007 gam, trộn đều lấy 3,421 gam niêm phong ký hiệu G1 gửi giám định, còn lại 165,586 gam niêm phong ký hiệu G2, lưu kho theo quy định.
Tại Kết luận giám định số 758/KL-KTHS, ngày 23/4/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên, kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu G1 gửi giám định là chất ma túy loại Heroine, khối lượng thu giữ ban đầu là 169,007gam.
Quá trình điều tra bị cáo khai nhận như sau: Khoảng 15 giờ ngày 08/4/2021, tại khu vực ngã ba MB, thành phố TN, G gặp một người nam giới tự giới thiệu tên H nhà ở tỉnh Bắc Kạn, H đặt mua của G 100.000.000 đồng tiền Heroine, G đồng ý và hẹn H 21 giờ ngày 14/4/2021, gặp nhau tại khu vực trạm thu phí cao tốc Thái Nguyên-Bắc Kạn, để trao đổi mua bán ma tuy. Đến khoảng 17 giờ ngày 14/4/2021, G đi đên khu vưc QT, thành phố TN tìm mua ma túy, tại đây G đã mua của một nam thanh niên không quen biết 05 gói heroine, với giá 90.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy G đem về nhà tại tổ dân phố GS, thị trấn GT, huyện PL cất giấu.
Khoảng 19 giờ 45 phút cùng ngày, G gọi điện thoại cho chị Nguyễn Thị L,sinh năm 1967, trú tại xóm 9, xã CL, huyên PL rủ xuống thành phố Thái Nguyên chơi, đến khoảng 20 giờ L đi xe mô tô BKS 20M8-5031 đến nhà G, G cất 05 gói Heroine vừa mua lúc chiều vào túi quần bên trái đang mặc, rồi điều khiển xe mô tô của L chở L ngồi phía sau đi thành phố Thái Nguyên. Khi đi đến khu vực trạm thu phí cao tốc Thái Nguyên-Bắc Kạn, thì G dừng xe xuống đi bộ gặp Hùng để bán ma túy, còn L vẫn ngồi trên xe, G đi được khoảng 03 mét thì bị Công an thành phố Thái Nguyên phát hiện băt qua tang, thu giữ vật chứng.
Bản cáo trạng số 46/CT-VKS, ngày 05/8/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên truy tố bị cáo Đặng Văn G về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà sơ thẩm, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, đúng như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.
Phần luận tội tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử sơ thẩm tuyên bố bị cáo Đặng Văn G phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm b khoản 4, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điêm h khoản 1 Điêu 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn G 20 năm tù. Phạt bô sung bị cáo từ 10 triệu đến 15 triệu đồng sung quỹ nhà nước.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy số ma tuy đa thu gi ữ của bị cáo; tạm g iư 01 điện thoại di động nhãn hiệu vivo, vỏ mầu xanh, đen đã qua sử dụng để đam bao thi hanh án cho bị cáo; trả lại cho bị cáo 01 mũ bảo hiểm màu xanh.
Trả lại cho chị L 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 20M8- 5031; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ màu đen và 01 mũ bảo hiểm màu bạc.
Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận với luận tội của Viện kiểm sát. Luật sư bào chữa cho bị cáo xác định, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng. Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh đặc biệt của bị cáo, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đề nghị Hội đồng xet xư xem xét x ử phạt bị cáo mức án thấp nhất và miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Bị cáo nhất trí với nội dung bào chữa của Luật sư.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo không có ý kiến gì.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên và người bào chữa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, Luật sư và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp và đúng quy định của pháp luật.
[2] Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 14/4/2021, bị cáo đã có hành vi mua 169,007gam, loại Heroine của một người nam giơi không ro đia chi tại khu vưc phương QT, thành phố TN vơi gia 90.000.000 đông, sau đo mang sô ma tuy trên đên khu vưc xom BG, xã SC, thành phô TN, tỉnh Thái Nguyên để bán cho ngươi nam giơi tên H vơi gia 100.000.000 đông, nhưng chưa kip ban thi bi Công an thành phô Thai Nguyên, tỉnh Thái Nguyên bắt quả tang thu giữ vật chứng.
Với hành vi trên, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Điều luật có nội dung:
1. Người nào mua bán trái phép chất ma tuý, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
…4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.
…b) Heroine… có khối lượng 100 gam trở lên.
[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây hủy hoại sức khỏe của con người, làm nguy cơ gia tăng các loại tội phạm khác. Tính chất đặc biệt nghiêm trọng trong vụ án này, thể hiện ở trọng lượng ma túy do bị cáo mua bán trái phép nhằm muc đich kiếm lời. Xét thấy, cần phải xử lý nghiêm, buộc bị cáo phải cách ly khoi xã h ội môt thơi gian để cải tạo, giáo dục bị cáo va răn đe, phòng ngừa chung trong công cuôc phong chông tôi pham.
[4] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 02 tiền án liên quan đên ma tuy, đến nay chưa được xóa án tích, bị cáo phạm tội lân nay thuôc trương hơp “tai pham nguy hiêm” , nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học đê rut kinh nghiêm mà l ại tiếp tục phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn, hối cải. Do đó, bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đó là:“Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”, bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đươc quy đinh tai điêm h khoan 1 Điêu 52 Bộ luật Hình sự, đó là “Tai nạn nguy hiểm”.
Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ chấp nhận.
Đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo, Hội đồng xét xử xem xét theo quy định của pháp luật.
[5] Vật chứng vụ án:
- Tịch thu tiêu hủy các bì niêm phong được ký hiệu G1, G2.
- Đối với 01 chiêc điện thoại nhãn hiệu vivo, vỏ màu xanh đen đã qua sử dụng thu giư cua bi cao . Quá trình điều tra và tranh tụng tại phiên tòa, xác định bi cao không sư dung chiếc điện thoại trên vao viêc mua ban ma tuy , xét thấy cân tra lai cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đam bao thi hanh án.
- Đối với 01 chiêc mu bao hiêm mau xanh thu giư cua bi ca o. Tại phiên toa sơ thâm, bị cáo không yêu cầu trả lại xác đinh không con gia tri sư dung , xét thấy cần tịch thu tiêu hủy.
- Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 20M8-5031;
01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo vỏ màu đen va 01 mũ bảo hiểm m àu bac. Quá trình điêu tra va tranh tung tai phiên toa , xác đinh nhưng tai san trên thuôc quyên sơ hưu cua chi L và không liên quan đến vụ án, cân tra lai cho chu sơ hưu.
[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội vì mục đích lợi nhuận, vì vậy cần phạt bổ sung một khoản tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự để sung quỹ nhà nước.
Đối với chị Nguyễn Thị L đa đi cung G bán trái phép chất ma túy vào ngày 14/4/2021. Quá trình điêu tra va tranh tung tai phiên toa , xác đinh chi L không liên quan đên hanh vi mua ban ma tuy cua G. Do vây, Cơ quan điêu tra không xem xet xư lý đối với chị L là có căn cứ và đung quy đinh cua phap luât.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 326 Bộ luật Tố tụng hình sự;
1. Tuyên bố bị cáo Đặng Văn G phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".
2. Về hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điêm h khoan 1 Điêu 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn G 20 (hai mươi ) năm tu , thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 14/4/2021.
3. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, phạt bị cáo 10.000.000 đồng (mươi triệu đồng) sung quỹ nhà nước.
4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Tịch thu tiêu hủy gồm:
+ 01 bì niêm phong theo quy đinh ký hiệu G2, (bì niêm phong lưu kho , bên trong co chưa 165,586 gam chât bôt mau trăng , nghi la Heroine , măt sau bi niêm phong co chư ký của Đặng Văn G và các thành phần tham gia niêm phong cùng 03 hình dấu tròn của Cơ quan Cảnh sát điêu tra Công an thành phố Thái Nguyên).
+ 01 bì niêm phong theo quy đinh ký hiệu G1, (bì niêm phong chứa chất Heroine là mẫu hoàn lại sau giám định , măt sau bi niêm phong co chư ky cua Dương Ngọc Khánh và Nguyễn Minh Thanh cùng 02 hình dấu tròn của Phong Ky thuât hinh sư Công an tỉnh Thái Nguyên).
+ 01 chiêc mu bao hiêm mau xanh.
- Tạm giữ 01 chiêc điện thoại di đông nhãn hiệu vivo, vỏ màu xanh đen đã qua sử dụng đươc niêm phong theo quy đinh ky hiêu G 9, để đam bao thi hanh án cho bị cáo.
- Trả lại cho chị Nguyễn Thị L gôm:
+ 01 xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen, BKS 20M8-5031, số khung: Y331384, số máy: 5C63-331447, dung tich xi Lh 110cm3, tình trạng xe đã qua sử dụng, xe xước sát, han ri, có 01 gương chiếu hậu bên trái;
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Oppo, vỏ màu đen đươc niêm phong theo quy đinh ky hiêu G9;
+ 01 chiêc mũ bảo hiểm màu bạc.
Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Thái Nguyên và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Thái Nguyên ngày 05/8/2021.
5. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nôp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự; người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.”
6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng các Điều 331, Điều 333 và Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, văng măt ngươi co quyên lơi , nghĩa vụ liên quan bà Nguyên Thi L có quyền khang cao trong han 15 ngày, kê tư ngay nhân đươc bản án hoặc bảnán được niêm yết hợp lệ./.
Bản án 34/2021/HSST ngày 26/08/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 34/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về