Bản án 34/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 19/01/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 732/2020/TLST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 732/2020/QĐXXST-HS ngày 09 tháng 12 năm 2020, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn T, sinh năm 1991, tại Nghệ An; Hộ khẩu thường trú: Bản B, xã C, huyện Q, tỉnh N; Nơi cư trú: không; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ: Không; Trình độ học vấn: Lớp 08/12; Họ tên cha: Lê Văn T1, sinh năm 1963; Họ tên mẹ: Lê Thị T2, sinh năm 1962; Gia đình bị cáo có 05 anh em, trong đó có 02 anh em cùng cha khác mẹ, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; Có vợ: Sấm Ưng C, sinh năm 1990 (đã ly hôn năm 2019); Có 01 con, sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt ngày 23/8/2020, theo Lệnh số 834 ngày 03/7/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Chị Phùng Thị X, sinh năm 1984 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ 21, khu phố A, phường L, thành phố B, tỉnh Đ.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Văn T3, sinh năm 1983 – Vắng mặt.

Địa chỉ: Tổ 18B, khu phố B, phường L, thành phố B, tỉnh Đ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 8 giờ 30 phút, ngày 23 tháng 8 năm 2020, bị cáo Lê Văn T mượn xe mô tô của anh Phạm Văn T3, sinh năm 1983, trú tại tổ 18B, khu phố B, phường L, thành phố B, tỉnh Đ, nhãn hiệu Honda Wave RSX biển số 39F5-6102 điều khiển đến khu vực chợ Trại Bò thuộc tổ 13, khu phố 5A, phường L, thành phố B, tỉnh Đ thì phát hiện chị Phùng Thị X, sinh năm 1984, trú tại 470B, tổ 21, khu phố A, phường L, thành phố B, tỉnh Đ đang dựng xe mô tô nhãn hiệu Vision, biển số 60F2-45908 bên đường trước quầy bán giày dép để mua hàng. Lợi dụng lúc chị X không chú ý, bị cáo T điều khiển xe đến lại gần chỗ chị X đang dựng xe rồi thò tay vào hộc đựng đồ bên trái tay lái của xe lấy trộm chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7 và tăng ga bỏ chạy thì bị chị X phát hiện tri hô, cùng lúc đó anh Nguyễn Tiến Đ, sinh năm 2002, trú tại khu phố 5, phường L, thành phố B, tỉnh Đ trực tiếp nhìn bị cáo T lấy điện thoại của chị X thì bị anh Đ và anh Nguyễn Nam Th, sinh năm 1977, trú tại tổ 31, khu phố 5A, phường L, thành phố B, tỉnh Đ đuổi theo bắt giữ bị cáo T cùng tang vật và giao Công an phường Long Bình lập hồ sơ phạm tội quả tang.

Vật chứng vụ án:

- 01 (Một) điện thoại Samsung Galaxy A7 Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả cho chị Phùng Thị X là chủ sở hữu.

- 01 (Một) xe mô tô biển số 39F5-6102 của anh Phạm Văn T3, anh T3 không biết bị cáo T mượn xe để phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Phạm Văn T3 là chủ sở hữu.

Tại Bản kết luận định giá số 392/KL-HĐĐGTS ngày 28/8/2020, của Hội đồng định giá tài sản thành phố Biên Hòa đã kết luận “01 (Một) điện thoại di động Samsung Galaxy A7 có giá trị tài sản định giá là 2.310.000đ (Hai triệu ba trăm mười nghìn đồng).

Về trách nhiệm dân sự: Chị Phùng Thị X đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số: 09/CT-VKSBH ngày 09/12/2020, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa truy tố bị cáo Lê Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát trình bày lời luận tội vẫn giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Văn T mức án từ 06 (Sáu) tháng đến 08 (Tám) tháng tù giam.

Bị cáo không phát biểu bào chữa cho mình và cũng không yêu cầu đưa thêm vật chứng, tài liệu khác ngoài những chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ của vụ án ra xem xét tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên tòa, chị Phùng Thị X, anh Phạm Văn T3 vắng mặt. Căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị X, anh T3.

[3] Về hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Lê Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Cụ thể, vào khoảng 08 giờ 30 ngày 23/8/2020, bị cáo T mượn xe mô tô của anh Phạm Văn T3 chạy đến khu vực Trại Bò thuộc tổ 13, khu phố 5A, phường L, thành phố B, tỉnh Đ thì phát hiện chị Phùng Thị X đang dựng xe trước quầy bán giày dép để mua hàng. Lợi dụng lúc chị X không để ý bị cáo T đã có hành vi lén lúc thò tay vào hộc đựng đồ bên trái tay lái của xe chị X lấy 01 điện thoại Samsung Galaxy A7 rồi tăng ga bỏ chạy thì bị anh Nguyễn Tiến Đ và anh Nguyễn Nam Th bắt giữ giao Công an phường Long Bình Tân lập hồ sơ phạm tội quả tang.

Chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7 có giá trị định giá là 2.310.000đ (Hai triệu ba trăm mười nghìn đồng).

[4] Lời khai nhận của bị cáo T phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai nhân chứng cùng các chứng cứ khác được thể hiện tại hồ sơ vụ án, phù hợp với nội dung mà bản Cáo trạng đã viện dẫn và truy tố, nhận thấy có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[5] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây bất bình cho quần chúng nhân dân nên cần xử phạt bị cáo với mức án nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và cũng để răn đe, phòng ngừa chung. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, để xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không.

[7] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải; Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8] Về trách nhiệm bồi thường dân sự: Chị Phùng Thị X đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[9] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

- 01 (Một) điện thoại Samsung Galaxy A7 Cơ quan cảnh sát điều tra đã trả cho chị Phùng Thị X là phù hợp.

- 01 (Một) xe mô tô biển số 39F5-6102 của anh Phạm Văn T3, anh T3 không biết bị cáo T mượn xe để phạm tội nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã trả lại cho anh Phạm Văn T1 là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lê Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Lê Văn T 06 (Sáu) tháng tù giam. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 23/8/2020.

3. Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Chị Phùng Thị X, anh Phạm Văn T3 vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2021/HS-ST ngày 19/01/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;