Bản án 34/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TS, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 08 tháng 6 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện TS, tỉnh Phú Thọ, Tòa án nhân dân huyện TS xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 32/2021/HSST ngày 17/5/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/QĐ -TA ngày 26/5/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Tạ Thị Hồng L, sinh ngày: 28/4/1992 tại TS.

- Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nữ; Nơi thường trú: Khu TT, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Văn hóa: 08/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; Bố đẻ: Tạ Diên H, sinh năm 1955; Mẹ đẻ: Hán Thị T, sinh năm 1959; Chồng: Không; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017; Anh, chị, em ruột: có 03 anh chị em. Bị cáo là con thứ hai; Hiện bố mẹ, chị gái, em trai và 02 con đều thường trú tại khu TT, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ.

- Tiền án, Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 22/01/2021 đến ngày 28/01/2021 sau đó chuyển tạm giam. Hiện bị can đang thi hành Lệnh tạm giam tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Phú Thọ.

( Có mặt tại phiên tòa).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Hà Quốc Th, Sinh năm 2000 ( Vắng mặt).

Địa chỉ: Xóm D1, xã VM, huyện TS, tỉnh Phú Thọ

2. Anh Phùng Văn B, sinh năm 2001( Vắng mặt).

Địa chỉ: Xóm LT, xã V, huyện TS, tỉnh Phú Thọ.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 15 phút ngày 22/01/2021, Tổ Công tác thuộc Công an huyện TS đang thực hiện nhiệm vụ tại khu Phố Soi, xã Thục Luyện, huyện TS, tỉnh Phú Thọ thì phát hiện Tạ Thị Hồng L (Sinh năm 1992, thường trú khu TT, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ) và Hà Quốc Th (Sinh năm 2000, thường trú Xóm D1, xã VM, huyện TS, tỉnh Phú Thọ) đang có hành vi mua bán trái phép chất ma túy. Thu giữ tại tay phải của Tạ Thị Hồng L 01 gói nilon màu trắng bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, L khai là ma túy đá mang theo để sử dụng; Thu giữ tại tay trái số tiền 500.000 đồng (gồm 05 tờ mệnh giá 100.000 đồng), L khai trong đó 400.000 đồng là tiền L vừa bán ma túy đá cho Th và 100.000 đồng là tiền bán đồ ăn vặt tại quán của L cho Th. Thu giữ tại tay trái của Hà Quốc Th 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất rắn dạng tinh thể màu trắng, Th khai là ma túy đá vừa mua của Tạ Thị Hồng L với giá 400.000 đồng để sử dụng. Thu giữ của L 01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA 215 đã cũ, màu đen, có gắn sim số điện thoại 0358.759.089; tạm giữ của Th 01 điện thoại nhãn hiệu Masstel đã cũ, màu đen viền đỏ, có gắn sim số điện thoại 0325.542.553. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng đã thu giữ theo quy định.

Tiến hành thử nhanh phản ứng chất ma túy đối với Tạ Thị Hồng L và Hà Quốc Th đều cho kết quả dương tính. Khám xét khẩn cấp nơi ở của Tạ Thị Hồng L tại khu TT, thị trấn TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ không phát hiện thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Tại bản kết luận giám định số 220/KLGĐ- PC09 ngày 25/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ kết luận:

- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 01 gói nilon màu trắng, trong Bì niêm phong số 01 (Bì ghi vật chứng thu giữ của Tạ Thị Hồng L) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,113 gam, loại: Methamphetamine;

- Chất rắn dạng tinh thể màu trắng chứa trong 01 gói nilon màu trắng, trong Bì niêm phong số 02 (Bì ghi vật chứng thu giữ của Hà Quốc Th) gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 0,012 gam, loại: Methamphetamine * Methamphetamine là chất ma túy nằm trong Danh mục II, số thứ tự 323, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất.” Sau giám định hoàn trả lại đối tượng giám định gồm: 0,087 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong Bì số 01 (Bì ghi vật chứng thu giữ của Tạ Thị Hồng L); 0,004 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng trong Bì số 02 (Bì ghi vật chứng thu giữ của Hà Quốc Th) cùng bao gói gửi đến giám định được niêm phong lần lượt trong 02 bì giấy tương ứng đánh số 01, 02; bên ngoài cả 02 bì giấy được đóng 05 hình dấu tròn màu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Phú Thọ và chữ ký của các thành phần liên quan tại các mép dán.

Quá trình điều tra Tạ Thị Hồng L và Hà Quốc Th khai nhận đã hai lần mua bán trái phép chất ma túy với nhau, cụ thể:

- Lần thứ nhất: Khoảng 01 giờ ngày 20/01/2021, tại khu vực cầu Dòng thuộc Khu Phố Soi, xã Thục Luyện, huyện TS, tỉnh Phú Thọ, L đã bán cho Th 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa ma túy đá với giá 300.000 đồng (gồm 01 tờ mệnh giá 200.000 đồng và 01 tờ mệnh giá 100.000 đồng). Sau đó L đã tiêu sài cá nhân hết số tiền 300.000 đồng.

- Lần thứ hai: Khoảng 00 giờ 10 phút ngày 22/01/2021, tại khu vực cầu Dòng thuộc Khu Phố Soi, xã Thục Luyện, huyện TS, tỉnh Phú Thọ, L đã bán cho Th 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa ma túy đá với giá 400.000 đồng. Sau khi L và Th vừa mua bán ma túy xong thì bị tổ công tác phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Ngoài hai lần bán ma túy cho Hà Quốc Th đã được làm rõ, bị can L còn bán trái phép chất ma túy cho Phùng Văn B (Sinh năm 2001, thường trú xóm LT, xã V, huyện TS, tỉnh Phú Thọ) 01 lần. Cụ thể: Vào khoảng 18 giờ ngày 10/01/2021, B đến gặp L tại phố Ba Mỏ, TT TS, huyện TS, tỉnh Phú Thọ và hỏi mua 500.000 đồng ma túy đá. L đồng ý và cầm 01 tờ tiền mệnh giá 500,000 đồng của B và hẹn sẽ liên hệ lại sau. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, L để 01 gói ma túy đá vừa mua được vào vỏ bao thuốc lá Thăng Long rồi cất giấu tại chân cột điện gần Nghĩa trang liệt sỹ thuộc phố Ba Mỏ và gọi điện cho B, chỉ vị trí cất giấu gói ma túy. Sau đó B lấy được gói ma túy và sử dụng hết. Ngày 22/01/2021 Phùng Văn B đã tự nguyện giao nộp 01 điện thoại nhãn hiệu NOKIA 105 đã cũ, màu đen, có gắn sim số điện thoại 0328.394.519 là điện thoại B sử dụng để trao đổi nội dung mua bán ma túy với Tạ Thị Hồng L.

Lời khai của bị cáo, lời khai của Hà Quốc Th, Phùng Văn B về các lần mua bán trái phép chất ma túy phù hợp với nhau về thời gian, địa điểm, số tiền, đặc điểm ma túy, phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Tại các buổi đối chất giữa bị cáo và Hà Quốc Th, Phùng Văn B đều thể hiện nội dung các lần ma bán trái phép chất ma túy như đã nêu trên. Như vậy, có đủ căn cứ để khẳng định bị cáo đã bán trái phép ma túy hai lần cho Hà Quốc Th, bán trái phép chất ma túy 01 lần cho Phùng Văn B.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 10, 20 và 22/01/2021 như Cáo trạng đã mô tả là đúng.

Tại bản cáo trạng số: 35/CT – VKS- ThS ngày 17/5/2021 Viện kiểm sát nhân dân huyện TS đã truy tố bị cáo Tạ Thị Hồng L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TS giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng: điểm b, c Khoản 2 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38- Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt: Tạ Thị Hồng L từ 08(Tám) đến 09(Chií) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ , tạm giam 22/01/2021. Miễn áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo Tạ Thị Hồng L.

* Về vật chứng của vụ án: Áp dụng khoản 1 Điều 47- BLHS; Điều 106- BLTTHS, tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: 02 bì giấy số 220/KLGĐ có đóng dấu niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ,( Bì số 01 ghi hoàn lại 0,087 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng- vật chứng thu giữ của Tạ Thị Hồng L; Bì số 02 ghi trả lại 0,004 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng – vật chứng thu giữ của Hà Quốc Th).

03 sim điện thoại di động gồm: 01 sim số 035 8.759.089 gắn trong điện thoại NOKIA 215 đã cũ của Tạ Thị Hồng L; 01 sim số 0328.394.519 gắn trong điện thoại di động NOKIA 105 của Phùng Văn B; ; 01 sim điện thoại số 0325.542.553 gắn trong điện thoại của Hà Quốc Th.

Tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước các vật chứng còn giá trị sử dụng 03 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 215 đã cũ màu đen của bị cáo L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen viền đỏ, đã cũ của Hà Quốc Th và 01 điện thoại Nokia 105 màu đen đã cũ của Phùng Văn B.

Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ khi bắt quả tang trong đó có 400.000 đồng là tiền do Tạ Thị Hồng L bán ma túy cho Th cần phải tịch thu sung quỹ, còn 100.000 đồng là tiền do bị cáo bán hàng, không phải do phạm tội mà có cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với số tiền bị cáo bán ma túy cho Hà Quốc Th ngày 20/01/2021= 300.000đ; Số tiền 800.000đ bị cáo mua ma túy ngày 10/01/2021 (trong đó 500.000đ của Phùng Văn B và 300.000đ của bị cáo), là phương tiện bị cáo sử dụng để phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều tra không thu giữ được, cần truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

Bị cáo L không tranh luận gì với Luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo rất hối hận về hành vi vi phạm pháp luật của bị cáo, bị cáo còn có 02 con nhỏ không ai chăm sóc, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về cộng đồng, hoàn lương thành người lương thiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện TS, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TS, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng theo quy định của pháp luật.

[2]. Tại phiên toà bị cáo Tạ Thị Hồng L đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, thừa nhận nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không có gì oan sai. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, các vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, lời khai người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở để kết luận: Hồi 00 giờ 15 phút ngày 22/01/2021, tại khu Phố Soi, xã Thục Luyện, huyện TS, tỉnh Phú Thọ, Tạ Thị Hồng L đã bán trái phép 0,012 gam chất ma túy Methamphetamine cho Hà Quốc Th và tàng trữ 0,113 gam Methamphetamine để sử dụng và bán. Ngoài hành vi bán trái phép chất ma túy cho Hà Quốc Th bị bắt quả tang ngày 22/01/2021, bị cáo L còn thực hiện hành vi bán trái phép chất ma túy cho Hà Quốc Th 01 lần ngày 20/01/2021 và cho Phùng Văn B 01 lần ngày 10/01/2021. Theo tinh thần hướng dẫn tại tiểu mục 2.3 mục I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSTC-TANDTC, ngày 24/12/2007, được sửa đổi bổ sung tại Thông tư liên tịch số 08/2015, ngày 14/11/2015 thì hành vi của bị cáo L đủ yếu tố cấu yếu tố cấu thành tội “ Mua bán tái phép chất ma túy” qui định tại điểm b khoản 2 Điều 251- BLHS. Tại bản luận tội Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố tại Cáo trạng số số 35/CT-VKSThs, ngày 17/5/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TS về tội danh đối với bị cáo là không đúng hướng dẫn tại tiểu mục 2.4 mục I Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA- VKSTC-TANDTC, ngày 24/12/2007, được sửa đổi bổ sung tại Thông tư liên tịch số 08/2015, ngày 14/11/2015; Tiểu mục 3 mục I Công văn số 89/TANDTC-PC, ngày 30/6/2020 của Tòa án nhân dân tối cao .

[3]. Xét tính chất vụ án là rất nghiêm trọng bởi hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm rất lớn cho xã hội, đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, các chất gây nghiện, chất hướng thần. Bởi vì ma túy để lại nhiều hậu quả khôn lường, gây ra nhiều tác hại cho sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội khác như trộm cắp, lừa đảo, cướp giật tài sản… Hành vi đó đã gây mất trật tự an toàn xã hội, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân. Xét thấy cần xử phạt bị cáo hình phạt thật nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung tội phạm.

[4]. Hội đồng xét xử nhất trí với đánh giá về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo của Kiểm sát viên tại Bản luận tội bởi lẽ: Bị cáo sinh ra và lớn lên trong gia đình cơ bản, thuần nông, trước lần phạm tội này, bị cáo chưa bị cơ quan có thẩm quyền xử phạt về hành vi vi phạm pháp luật, chưa bị Tòa án có thẩm quyền kết án về hành vi phạm tội. Tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên bị cáo được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51- Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào nhưng hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bản thân bị cáo là người nghiện ma túy nên cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn trên mức khởi điểm của khung hình phạt mà điều luật qui định và cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian, để bị cáo tự cai nghiện, đồng thời giáo dục cải tạo bị cáo thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 thì bị cáo còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Theo các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa nhận thấy bị cáo là người nghiện ma túy, không có nghề nghiệp ổn định, không có tài sản gì, khó khăn trong việc thi hành án nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[6]. Về nguồn gốc số ma túy bán cho Hà Quốc Th, Phùng Văn B, bị cáo Tạ Thị Hồng L khai nhận mua tại khu vực cầu Đồng Quang, Ba Vì, Hà Nội của hai người đàn ông L không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có đủ căn cứ để xử lý là phù hợp.

Đối với Hà Quốc Th và Phùng Văn B là hai đối tượng nghiện ma túy. không có tiền án, tiền sự, mua ma túy với mục đích để sử dụng. Khối lượng ma túy Hà Quốc Th mua chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Khối lượng ma túy L bán cho B không xác định được. Đây đều là các hành vi vi phạm hành chính. Ngày 23/4/2021, Công an huyện TS đã tiến hành xử phạt vi phạm hành chính theo Quyết định số 68/QĐ-XPHC đối với Hà Quốc Th và Quyết định số 69/QĐ-XPHC đối với Phùng Văn B là đúng quy định của pháp luật.

[7]. Về vật chứng vụ án: Ma túy thuộc danh mục hàng hóa Nhà nước cấm lưu hành, vật chứng không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy gồm: 02 bì giấy số 220/KLGĐ có đóng dấu niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ,( Bì số 01 ghi hoàn lại 0,087 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng- vật chứng thu giữ của Tạ Thị Hồng L; Bì số 02 ghi trả lại 0,004 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng – vật chứng thu giữ của Hà Quốc Th).

03 sim điện thoại di động gồm: 01 sim số 035 8.759.089 gắn trong điện thoại NOKIA 215 đã cũ của Tạ Thị Hồng L; 01 sim số 0328.394.519 gắn trong điện thoại di động NOKIA 105 của Phùng Văn B; 01 sim điện thoại số 0325.542.553 gắn trong điện thoại của Hà Quốc Th.

Tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước các vật chứng còn giá trị sử dụng 03 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 215 đã cũ màu đen của bị cáo L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen viền đỏ, đã cũ của Hà Quốc Th và 01 điện thoại Nokia 105 màu đen đã cũ của Phùng Văn B.

Đối với số tiền 500.000 đồng thu giữ khi bắt quả tang trong đó có 400.000 đồng là tiền do Tạ Thị Hồng L bán ma túy cho Th cần phải tịch thu sung quỹ. Số tiền 100.000 đồng còn lại là tiền bị cáo bán hàng, không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Đối với số tiền bị cáo bán ma túy cho Hà Quốc Th ngày 20/01/2021= 300.000đ; Số tiền 800.000đ bị cáo mua ma túy ngày 10/01/2021 (trong đó 500.000đ của Phùng Văn B và 300.000đ của bị cáo), là phương tiện bị cáo sử dụng để phạm tội, Cơ quan cảnh sát điều tra không thu giữ được, cần truy thu nộp ngân sách Nhà nước.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51 - Bộ luật hình sự năm 2015;

1. Tuyên bố: Bị cáo Tạ Thị Hồng L phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Tạ Thị Hồng L 07 (Bảy) năm 06(Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/01/2021 .

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Tạ Thị Hồng L

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Khoản 1, điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Tịch thu tiêu hủy các vật chứng gồm: 02 bì giấy số 220/KLGĐ có đóng dấu niêm phong của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Thọ,( Bì số 01 ghi hoàn lại 0,087 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng- vật chứng thu giữ của Tạ Thị Hồng L; 01 bì ghi trả lại 0,004 gam chất rắn dạng tinh thể màu trắng – vật chứng thu giữ của Hà Quốc Th).

03 sim điện thoại di động gồm: 01 sim số 035 8.759.089 gắn trong điện thoại NOKIA 215 đã cũ của Tạ Thị Hồng L; 01 sim số 0328.394.519 gắn trong điện thoại di động NOKIA 105 của Phùng Văn B; 01 sim điện thoại số 0325.542.553 gắn trong điện thoại của Hà Quốc Th.

Tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước 03 điện thoại di động gồm: 01 điện thoại nhãn hiệu Nokia 215 đã cũ màu đen của bị cáo L; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen viền đỏ, đã cũ của Hà Quốc Th và 01 điện thoại Nokia 105 màu đen đã cũ của Phùng Văn B.

Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước 400.000đ (Bốn trăm nghìn đồng) của bị cáo Cơ quan điều tra thu giữ ngày 22/01/2021.

Truy thu số tiền 1.100.000đ( Một triệu một trăm nghìn đồng) của bị cáo L để nộp ngân sách Nhà nước.

Trả lại cho bị cáo L số tiền 100.000đ( Một trăm nghìn đồng) không liên quan đến tội phạm Cơ quan điều tra thu giữ ngày 22/01/2021, nhưng tam giữ để đảm bảo thi hành án.

Vật chứng là tiền 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) đang được tạm giữ tại tài khoản số 3941.0.9044309.00000 của Công an huyện TS tại kho bạc Nhà nước huyện TS, tỉnh Phú Thọ.

Vật chứng là đồ vật đã chuyển đến kho vật chứng của Chi cục thi hành án dân sự huyện TS ngày 18/5/2021.

* Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu,miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Tạ Thị Hồng L phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại UBND nơi cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 - luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và điều 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2021/HS-ST ngày 08/06/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cẩm Khê - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;