Bản án 34/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

 BẢN ÁN 34/2021/HS-ST NGÀY 07/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 7 háng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 22/2020/HSST ngày 09 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2021/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

BÙI QUỐC H (Nhem); sinh ngày: 12/9/1978 tại Đà Nẵng; nơi ĐKNKTT và nơi cư trú: số 240/2 N T, phường H C B, quận H C, TP Đ N; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: không biết chữ; con ông Bùi N (c) và bà Trà Thị Kim D; gia đình có 08 người con, bị cáo là con thứ 5.

Tiền án: tại bản án số 22/2020 ngày 13/01/2020 bị TAND quận Thanh Khuê, TP Đà Nẵng xử phạt 12 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 5/9/2020; tiền sự: không Nhân thân: Ngày 16/12/1995 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản công dân”; Ngày 31/5/1995 bị Công an quận Hải Châu TP Đà Nẵng áp dụng hành chính đưa vào cơ sở giáo dục;

Ngày 07/01/1999 bị Tòa án Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 10 năm tù về tội “Cướp tài sản công dân”; Ngày 26/02/2009 bị TAND TP Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Ngày 04/10/2013 bị Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính 1.5000.0000 đồng về hành vi xâm hại hoặc thuê xâm hại đến sức khỏe của người khác. Bị cáo bị bắt giam từ ngày 05/1/2021 (có mặt tại phiên tòa).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Bà Ngô Thị Thùy T, sinh năm: 1989. Trú tại: tổ 27, phường H A, quận C L, TP Đ N.(vắng mặt) Bà Nguyễn Thị Kim L; sinh năm: 1975. Trú tại: 106 L T, Phường H A, quận C L, TP Đ N.(vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 21 giờ 40 phút ngày 22/10/2020 Bùi Quốc H là người đã đến khu vực bệnh viện Hoàn Mỹ thuộc phường Thạc Gián, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng gặp một người tên Beo không rõ lai lịch mua 03 điếc thuốc với giá 50.000 đồng. Sau đó H mang số thuốc này về phòng trọ tại nhà nghỉ An Bình, H lấy 01 điếu ra hút còn lại hai điếu thì gói lại trong bao ny lon và cất trong hộc bàn cạnh giường ngủ. Sau khi hút xong, H dụi điếu thuốc còn đang hút dở vào vỏ bao thuốc lá trên mặt bàn rồi lên giường ngủ. Đến 23 giờ cùng ngày Công an phường Hòa An kiểm tra nhà nghỉ thì phát hiện và thu giữ số thuốc trên của H.

Tang vật thu giữ của H: 01bao ni lon chứa hai điếu thuốc quấn thảo mộc trong hộc bàn cạnh giường ngủ (được niêm phong ký hiệu C1) và 01 điếu thuốc quấn thảo mộc hút dỡ trong vỏ bao thuốc lá trên mặt bàn (được niêm phong ký hiệu C2) Tại bản kết luận giám định số 320/GĐ-MT ngày 02/11/20120 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Đà Nẵng kết luận: Thảo mộc trong điếu thuốc trong các bì niêm phong ký hiệu C1 và C2 gửi đi giám định là ma túy, loại lá của cây cần sa. Tổng số lượng là 1,006 gam, trong đó khối lượng mẫu C1 là: 0,748 gam; khối lượng mối C2 là 0,258 gam.

Bản cáo trạng số 22/KSĐT ngày 8/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng truy tố bị cáo Bùi Đức H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản cáo trạng và đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Bùi Quốc H từ 15 đến 21 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy Mẫu giám định ma túy hoàn trả lại theo kết luận giám định số: 320/GĐ-MT, ngày 02/11/2020 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an Thành phố Đà Nẵng(0,269 gam Cần sa và toàn bộ vỏ bao gói trong bì thư ký hiệu C1) Bị cáo H nói lời sau cùng: Trong thời gian bị tạm giam, bị cáo nhận thấy hành vi của bị cáo là sai trái, bị cáo hứa sẽ không sử dụng ma túy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận Cẩm Lệ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Cẩm Lệ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về xác định tội phạm: Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Quốc H khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 23 giờ ngày 22/10/2020, tại phòng 22 nhà nghỉ A B, địa chỉ: số 106 đường L T, phường H A, quận C L, thành phố Đ N. Bùi Quốc H đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,006 gam ma túy loại lá của cây Cần Sa, trọng lượng 1.006 gam lá cây Cần sa là chưa đủ để truy tố trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo Bùi Quốc H phạm tội lần này khi chưa xóa án tích nên việc phạm tội lần này là tái phạm. Do đó, hành vi của bị cáo H đã cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm a khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về tính chất mức độ, hành vi, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Xét tính chất của vụ án và hành vi của bị cáo đã xâm hại đến chế độ độc quyền quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo là người có nhân thân xấu: Ngày 16/12/1995 bị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản công dân”; Ngày 31/5/1995 bị Công an quận Hải Châu TP Đà Nẵng áp dụng hành chính đưa vào cơ sở giáo dục; Ngày 07/01/1999 bị Tòa án Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 10 năm tù về tội “Cướp tài sản công; Ngày 26/02/2009 bị TAND TP Đà Nẵng xử phạt 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”; Ngày 04/10/2013 bị Công an quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng xử phạt hành chính 1.500.0000 đồng về hành vi xâm hại hoặc thuê xâm hại đến sức khỏe của người khác; Tuy nhiên vừa mới ra trại một thời gian không lâu thì bị cáo lại có hành vi phạm tội mới, bị cáo biết rõ hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật nhưng để có ma túy sử dụng bị cáo đã đi mua ma túy về hút và tàng trữ. Do vậy, đối với hành vi của bị cáo cần xử phạt một mức án nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự sẽ được Hội đồng xét xử áp dụng giảm nhẹ một phần hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo của pháp luật đối với người phạm tội.

Đối với đối tượng Beo do không xác định được nhân thân lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra công an quận Cẩm Lệ tách ra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Đối với Ngô Thị Thùy T là người sống chung như vợ chồng với Bùi Quốc H, T không biết H có tàng trữ trái phép chất ma túy nên Cơ quan điều tra không xử lý là có cơ sở.

[4] Về Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy Mẫu giám định ma túy hoàn trả lại theo kết luận giám định số:320/GĐ-MT, ngày 02/11/2020 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an Thành phố Đà Nẵng(0,269 gam Cần sa và toàn bộ vỏ bao gói trong bì thư ký hiệu C1) * Về án phí: Bị cáo H phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Quốc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Quốc H 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam ngày 05/1/2021.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy Mẫu giám định ma túy hoàn trả lại theo kết luận giám định số:

320/GĐ-MT, ngày 02/11/2020 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an Thành phố Đà Nẵng (0,269 gam Cần sa và toàn bộ vỏ bao gói trong bì thư ký hiệu C1) (Toàn bộ số vật chứng trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/5/2021)

Về án phí: Căn cứ các điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Bùi Quốc H phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 34/2021/HS-ST ngày 07/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cẩm Lệ - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;