Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 34/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/04/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

 Ngày 20 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 75/2020/TLST- HNGĐ ngày 17 tháng 11 năm 2020 về việc: Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2021/QĐXX-ST ngày 16 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Phạm Thanh S - SN 1980 “Có mặt” Địa chỉ: Thôn 5, phường C, Thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị V - SN 1988 “ Có mặt”; Địa chỉ : Thôn 5, phường C, Thành phố T , tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn anh Phạm Thanh S trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị V kết hôn với nhau vào năm 2008 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện X (nay là phường P, Thành phố T), tỉnh Thanh Hóa. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Mặc dù, vợ chồng vẫn sống chung một nhà nhưng đã ly thân nhau về mặt tình cảm. Mâu thuẫn của anh chị đã được gia đình hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị V.

Về con: Anh chị có 02 con chung: Cháu Phạm Quỳnh N, sinh ngày 17/4/2009 và cháu Phạm Quỳnh A, sinh ngày 03/3/2016. Tại đơn khởi kiện và bản tự khai anh S đề nghị được nuôi cả hai cháu và không yêu cầu chị V phải cấp dưỡng nuôi con. Quá trình giải quyết vụ án, anh thay đổi quan điểm xin được nuôi cháu Phạm Quỳnh N và giao cháu Phạm Quỳnh A cho chị V nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản, công nợ: anh S không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Tại bản tự khai và quá trình giải quyết vụ án chị Nguyễn Thị V trình bày:

Về hôn nhân: Thời gian kết hôn, điều kiện kết hôn chị đồng ý như anh S đã trình bày nhưng chị cho rằng từ khi anh chị kết hôn cho đến nay thì vợ chồng chung sống hạnh phúc không có mâu thuẫn gì. Hiện nay tình cảm hai vợ chồng vẫn còn nên chị không đồng ý ly hôn. Trường hợp anh S vẫn cương quyết ly hôn chị đề nghị Tòa căn cứ vào các quy định của pháp luật để giải quyết.

Về con: Anh chị có hai con chung như anh S trình bày là đúng.Tại bản tự khai chị trình bày nếu phải ly hôn chị xin được nuôi cả hai cháu và đề nghị anh S phải cấp dưỡng nuôi con mỗi cháu 1.500.000đồng/tháng, hai cháu 3.000.000đồng/tháng. Quá trình giải quyết vụ án, chị thay đổi quan điểm là nếu phải ly hôn chị đề nghị giao cháu Phạm Quỳnh N cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Quỳnh A cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản, công nợ: Chị V không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa hôm nay anh S giữ nguyên quan điểm như đã trình bày và không có ý kiến bổ sung gì khác.

Sau khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay chị V thay đổi quan điểm và có ý kiến bổ sung như sau:

Về phần hôn nhân: Chị thừa nhận vợ chồng chung sống đã xảy ra mâu thuẫn nhưng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống hàng ngày chưa đến mức phải ly hôn. Nguyên nhân của những mâu thuẫn là do tính tình không hợp, quan điểm sống khác nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Gần một năm nay hai vợ chồng mặc dù cùng sống chung trong một nhà nhưng đã ly thân về mặt tình cảm. Nay anh S làm đơn khởi kiện đề nghị ly hôn với chị, chị thấy tình cảm hai vợ chồng vẫn còn nên chị không đồng ý ly hôn để vợ chồng cùng nuôi dạy con cái. Trường hợp anh S cương quyết ly hôn thì chị vẫn không đồng ý ly hôn.

Về con chung: Chị vẫn giữ nguyên quan điểm đã trình bày.

Về phần tài sản công nợ: Trong quá trình giải quyết vụ án chị không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết về phần tài sản. Sau khi Tòa có quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì đến ngày 31/3/2021 chị V mới nộp đơn đề nghị Tòa xem xét giải quyết nơi ở cho chị sau khi ly hôn tại ngôi nhà mà anh chị đang sinh sống, vì việc xây dựng ngôi nhà có công sức đóng góp của chị. Và tại phiên tòa hôm nay chị đề nghị chia tài sản chung của vợ chồng cho chị là 500.000.000 đ (năm trăm triệu đồng).

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và việc chấp hành của nguyên đơn, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật.

- Về nội dung: Đại diện VKS đề nghị Tòa án chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn. Không chấp nhận yêu cầu bổ sung về phần giải quyết tài sản của bị đơn, giành quyền bị đơn khởi kiện giải quyết yêu cầu chia tài sản chung bằng vụ án dân sự khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án ly hôn, bị đơn cư trú tại Thành phố T. Do vậy Tòa án Thành phố T thụ lý, giải quyết là đúng quy định theo khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Anh Phạm Thanh S và chị Nguyễn Thị V kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện,có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay anh S, chị V khai vợ chồng chung sống có xảy ra mâu thuẫn và đã ly thân nhau về mặt tình cảm. Anh S cho rằng mâu thuẫn của vợ chồng đã trầm trọng và kéo dài trong nhiều năm nay. Quan điểm của chị V cho rằng mâu thuẫn của vợ chồng chỉ là những mâu thuẫn nhỏ nhặt trong cuộc sống thường ngày và chưa đến mức phải ly hôn.

Kết quả thu thập chứng cứ tại địa phương thể hiện: quá trình anh chị chung sống đã có mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống. Địa phương đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả.

Mặc dù chị V không đồng ý ly hôn nhưng cũng không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tại phiên tòa hôm nay anh S vẫn cương quyết xin được ly hôn. Xét thấy mâu thuẫn của anh chị đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, do đó nếu buộc anh chị về đoàn tụ thì cuộc sống chung của vợ chồng cũng không cải thiện được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho anh S được ly hôn với chị V là phù hợp.

[3] Về con: Anh chị có 02 con chung. Cả hai đều thống nhất giao cháu Phạm Quỳnh N cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Quỳnh A cho chị chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét việc thỏa thuận của anh chị là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[4] Về tài sản, công nợ: Anh S không yêu cầu giải quyết.

Xét yêu cầu của chị V: Chị V yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng là 500.000.000 đồng và giải quyết vấn đề nơi ở cho chị sau khi ly hôn. Yêu cầu này của chị sau khi Tòa án đã có Quyết đưa vụ án ra xét xử. Theo quy định tại khoản 3 Điều 200 BLTTDS thì Chị V chỉ có quyền yêu cầu xem xét giải quyết về phần tài sản trước thời điểm Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải. Do đó Tòa án không giải quyết về phần tài sản chung của vợ chồng trong vụ án này mà giành quyền cho chị V khởi kiện giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng bằng vụ án dân sự khác.

[5] Về án phí:Anh S phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luât tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/QH14.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Khoản 3 Điều 200; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 273 BLTTDS. Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Xử cho anh Phạm Thanh S được ly hôn với chị Nguyễn Thị V.

Về con: Công nhận cháu Phạm Quỳnh N, sinh ngày 17/4/2009 và cháu Phạm Quỳnh A, sinh ngày 03/3/2016 là con chung của anh S và chị V. Giao cháu Phạm Quỳnh N cho anh S trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Phạm Quỳnh A cho chị V trực tiếp nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh S, chị V có quyền đi lại thăm nom con chung, không được ai cản trở.

Về tài sản, công nợ chung: Anh S không yêu cầu Tòa giải quyết.

Giành quyền cho chị V khởi kiện giải quyết yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân bằng vụ án dân sự khác.

Án phí: Anh Phạm Thanh S phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ anh đã nộp theo biên lai số AA/2018/0001650 ngày 10/11/2020 tại chi cục Thi hành án dân sự Thành phố T (anh S đã nộp đủ án phí).

Anh S, chị V có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 34/2021/HNGĐ-ST ngày 20/04/2021 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:34/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;