Bản án 34/2020/HS-ST ngày 13/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 34/2020/HS-ST NGÀY 13/08/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 34/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 7 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2020/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Lò Văn L, sinh năm 1979; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản T xã T, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: lớp 03/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Lò Văn C (T), sinh 1932 và bà Lò Thị N (đã chết); bị cáo có vợ Lò Thị X, sinh năm 1979 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1999, con nhỏ nhất sinh năm 2004; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 04/5/2010 bị Toà án nhân dân huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên, xử phạt 07 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” đã được xoá án tích; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/3/2020 đến nay; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Cầm Kim Loan là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người làm chứng:

Lò Văn B, sinh 1977, nơi cư trú: bản C, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

Cà Văn Ng, sinh 1995, nơi cư trú: Tiểu khu P, thị trấn Í, huyện M, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

Lò Văn H, sinh 1990, nơi cư trú: Tiểu khu P, thị trấn Í, huyện M, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 30 phút, ngày 02/3/2020 tại bản T, xã T, huyện M, tỉnh Sơn La; Tổ công tác Công an huyện M cùng Công an xã T nhiệm vụ kiểm tra hành chính Lò Văn L, Lò Văn B, Cà Văn N và Lò Văn H. Khi bị kiểm tra L đã tự giác lấy trong túi quần bên trái đang mặc ra giao nộp 01 gói nilon màu xanh, bên trong có bột màu trắng, L khai nhận đó là Heroine và số tiền 400.000VNĐ, L khai đó là tiền bán trái phép chất ma tuý cho N và H mà có, còn số tiền bán trái phép chất ma tuý cho B được 40.000VNĐ L đã chi tiêu hết; Lò Văn B tự giác lấy trong túi quần đang mặc ra giao nộp 01 gói nilon màu hồng, bên trong có lớp giấy trắng chứa bột màu trắng, B khai nhận đó là Heroine mua của L; Cà Văn N tự giác lấy trong túi quần đang mặc ra giao nộp 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa bột màu trắng, N khai nhận đó là Heroine mua của L; Lò Văn H tự giác lấy trong túi quần đang mặc ra giao nộp 01 gói nilon màu xanh, bên trong chứa bột màu trắng, Hiêng khai nhận đó là Heroine mua của L. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người quả tang, thu giữ, niêm phong vật chứng; cùng ngày tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của L nhưng không thu giữ gì thêm.

Trong quá trình điều tra Lò Văn L khai nhận: trưa ngày 01/3/2020 L gặp và mua 01 gói Heroine của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ ở khu vực giáp ranh giữa xã C và T thuộc huyện M, L đã sử dụng một phần còn lại cất giữ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời; đến 11 giờ 20 phút ngày 02/3/2020 L bán trái phép chất ma tuý cho Lò Văn B, Cà Văn N và Lò Văn H thì bị bắt.

Ngày 02/3/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn L, Lò Văn B, Cà Văn N và Lò Văn H như sau:

Chất bột màu trắng trong gói nilon màu hồng thu giữ với Lò Văn B có khối lượng: 0,02 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là LB;

Chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thu giữ với Cà Văn N có khối lượng: 0,02 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là LN;

Chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thu giữ với Lò Văn H có khối lượng: 0,05 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là LH;

Chất bột màu trắng trong gói nilon màu xanh thu giữ với Lò Văn L có khối lượng: 2,25 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là L.

Còn lại: vỏ phong bì niêm phong ban đầu và giấy gói cũ niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 19/3/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện thực hiện trưng cầu giám định số tiền 400.000VNĐ thu giữ của Lò Văn L. Ngày 05/3/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số: 439, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L, LB, LN, LH là chất ma túy; Loại chất Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là L = 2,25 gam, LB = 0,02 gam, LN = 0,02 gam, LH = 0,05 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,34 gam; loại Heroine. Hoàn lại chất bột màu trắng thuộc mẫu giám định ký hiệu L không sử dụng đến trong quá trình giám định, có khối lượng 2,16 gam”.

Ngày 01/4/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kêt luân giám định số 553, Kết luận: Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật.

Đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn L cơ quan chức năng đã xác minh nhưng không có cơ sở để điều tra xử lý.

Đối với Lò Văn B, Cà Văn N và Lò Văn H là người nghiện ma tuý cơ quan chức năng đã áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính.

Bản cáo trạng số 35/CT-VKS-ML ngày 13/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Lò Văn L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đó là do nghiện ma túy nên đã mua ma túy cất giữ, mục đích để sử dụng và bán cho người khác kiếm lời thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Lò Văn L phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 08 đến 09 năm tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu và tiêu hủy 2,16 gam Heroinne; vỏ phong bì; giấy gói cũ; tịch thu 400.000VNĐ và truy thu 40.000VNĐ nộp ngân sách Nhà nước; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Người bào chữa cho bị cáo L tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật rất hạn chế; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình, xã hội; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Người làm chứng vắng mặt, Hội đồng xét xử thấy lời khai có trong hồ sơ đã rõ nên quyết định xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: Lò Văn L đã mua trái phép chất ma tuý về cất giấu, cất giữ với mục đích để sử dụng và bán lại kiếm lời, thực tế cùng lúc L đã bán trái phép chất ma tuý (Heroine) cho Lò Văn B, Cà Văn N và Lò Văn H được số tiền 440.000VNĐ thì bị phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tại kết luận giám định số 439, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu L, LB, LN, LH là chất ma túy; Loại chất Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là L = 2,25 gam, LB = 0,02 gam, LN = 0,02 gam, LH = 0,05 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 2,34 gam; loại Heroine. Như vậy, Lò Văn L là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ và bán trái phép chất ma tuý (Heroine) cho người khác để kiếm lời là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại Điều 251 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo L đã trực tiếp mua, cất giấu, cất giữ và cùng lúc bán trái phép chất ma tuý cho Lò Văn B, Cà Văn N và Lò Văn H là đã phạm tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm. 2. Phạm tội thuộc trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: c) Đối với 02 người trở lên”.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, bị cáo đã được cải tạo giáo dục rèn luyện bản thân (đã chấp hành án phạt tù) nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, nhằm mục đích tư lợi cá nhân, kiếm lời dễ dàng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo không chỉ cất giấu, cất giữ trái phép chất ma túy (Heroine) có tổng khối lượng 2,34 gam mà còn bán trái phép chất ma túy cho 03 người khác; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội rất nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo mà còn ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo L phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt); khi bị kiểm tra bị cáo đã tự giác lấy ma túy cất giữ ra giao nộp, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm. Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, sống ở vùng sâu, xa, vùng ba, nhận thức pháp luật hạn chế, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu (đã bị kết án) là đối tượng nghiện ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), chính quyền địa phương xác định bị cáo không chấp hành quy định của địa phương, không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: bị cáo không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp ngăn chặn: cần áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 02/3/2020 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[9] Đối với Lò Văn B, Cà Văn N và Lò Văn H là người nghiện ma túy, đã mua trái phép Heroine của L, đang cất giữ thì bị bắt quả tang, cả 03 người chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng ma tuý không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan chức năng đã áp dụng biện xử phạt hành chính là có căn cứ; đối với người đàn ông bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, Cơ quan chức năng không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án.

[10] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,18 gam Heroine, không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.

Hiện đã niêm phong, lưu kho vật chứng: 2,16 gam Heroine, ký hiệu là L thu giữ của Lò Văn L còn lại là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và giấy gói cũ là vật dụng của bị cáo Liêng đã sử dụng làm phương tiện cất giữ trái phép chất ma tuý, vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với số tiền bị cáo L đã bán bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn B, Cà Văn N và Lò Văn H có được tổng cộng 440.000VNĐ là số tiền do phạm tội mà có, cơ quan chức năng đã thu giữ 400.000VNĐ, còn lại 40.000VNĐ bị cáo đã chi tiêu hết nên cần phải truy thu, tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 2 Điều 251; Điều 38; điểm s, t khoản 1, 2 Điều 51; điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Lò Văn L 08 (Tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, giam (02/3/2020); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng:

Tịch thu và tiêu hủy: 2,16 (Hai phẩy một sáu) gam Heroine, ký hiệu là L; Vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu và giấy gói cũ của Lò Văn L.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 440.000VNĐ (Bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) của Lò Văn L, trong đó: đã tạm giữ 400.000VNĐ (Bốn trăm nghìn đồng), phải truy thu tiếp số tiền 40.000VNĐ (Bốn mươi nghìn đồng).

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/7/2020 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo L.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (13/8/2020).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2020/HS-ST ngày 13/08/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;