Bản án 34/2020/HSST ngày 08/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HM - TỈNH NGHỆ AN

 BẢN ÁN 34/2020/HSST NGÀY 08/05/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Trong các ngày 07, 08 tháng 5 năm 2020, tại hội trường Tòa án nhân dân thị xã HM, thị xã HM, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 18/2019/HSST ngày 16 tháng 3 năm 2020 , theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2020/QĐXXST- HS, ngày 17 tháng 4 năm 2020 đối với các bị cáo :

1, Chu Văn C; Sinh ngày 11 tháng 02 năm 1990 Nơi cư trú: Xóm S, xã QL, thị xã HM, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa : 12/12 Con ông: Chu Văn T1; Con bà: Trần Thị T2 Vợ: Trần Thị CH (đã ly hôn), Có 01 con 6 tuổi Tiền án: không Tiền sự: Ngày 20/01/2016 bị Hạt kiểm lâm HM xử phạt vi phạm hành chính số tiền 5.250.000 đồng về hành vi nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép, chưa nộp phạt.

Nhân thân: Ngày 11/10/2016, Công an thị xã HM xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác số tiền 2.500.000 đồng, đã nộp phạt.

Bị tạm giam từ ngày 16/10/2019 đến nay.

2. Ngô Trí TA; Sinh ngày 18 tháng 9 năm 2001 Nơi cư trú: Khối 03, phường MH, thị xã HM, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa : 10/12 Con ông : Ngô Trí H1; Con bà: Nguyễn Thị L Vợ con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

3. Trần Đăng T1; Sinh ngày 01 tháng 02 năm 2000.

Nơi cư trú: Khối TH, phường QT, thị xã HM, tỉnh Nghệ An.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;

Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa :

Con ông : Trần Đăng H2; Con bà: Nguyễn Thị H3;

Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

4. Huỳnh Đ, Sinh ngày 16 tháng 3 năm 1997 Nơi cư trú: Khối TH, phường QT, thị xã HM, tỉnh Nghệ An Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Sữa chữa cơ khí; Trình độ văn hóa : 9/12 Con ông : Huỳnh D; Con bà : Lê Thị M;

Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

5. Nguyễn Văn V; Sinh ngày 27 tháng 11 năm 2002 Nơi cư trú: Khối ĐT, phường QD, thị xã HM, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Đánh cá biển; Trình độ văn hóa : 9/12 Con ông : Nguyễn Văn L; Con bà : Nguyễn Thị Th; Vợ: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

6. Đậu Danh Th, Sinh ngày 11 tháng 8 năm 2002 Nơi cư trú: Khối 9, phường MH, thị xã HM, tỉnh Nghệ An. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Sữa chữa cơ khí; Trình độ văn hóa : 9/12 Con ông : Đậu Danh L; Con bà: Nguyễn Thị H4;

Vợ, con : Chưa có. Tiền án, tiền sư: Chưa Nhân thân: Ngày 29/10/2019 bị Toà án nhân dân thị xã HM xử phạt 12 tháng phạt tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

Người đại diện cho bị cáo V : Ông Nguyễn Văn L, Sinh năm 1972 (có mặt).

Trú tại : Khối ĐT, phường QD, thị xã HM, tỉnh Nghệ An.

Người đại diện cho bị cáo Th :Ông Đậu Danh L;Sinh năm 1972 (có mặt).

Trú tại : Khối 9, phường MH, thị xã HM, tỉnh Nghệ An.

Người bào chữa cho các bị cáo Đậu Danh T h , N guyễn Văn V :

Ông Phạm Văn H : Trợ giúp viên pháp lý – Tr tâm trợ giúp pháp lý Nhà Nước , tỉnh Nghệ An .

Người bị hại : Anh Nguyễn Văn H , sinh năm 1988 (có mặt).

Trú tại: Thôn ĐT, xã QL, thị xã HM, tỉnh Nghệ An.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan :

1 . Chị Nguyễn Thị Th , sinh năm 1974 (có mặt).

Trú tại: Thôn ĐT, xã QL, thị xã HM, tỉnh Nghệ An.

2. Chị Nguyễn Thị C , sinh năm 1966 (có mặt).

Trú tại: Thôn S, xã QL, thị xã HM, tỉnh Nghệ An.

3 . Anh Đậu Đình T2 , sinh năm 1997 (có mặt).

Trú tại: Thôn ĐT, xã QL, thị xã HM, Nghệ An.

Người làm chứng :

1 . Chị Trương Thị L , sinh năm 1975 (có mặt).

Trú tại: Thôn ĐT, xã QL, thị xã HM, Nghệ An.

2 . Anh Nguyễn Văn Tr , sinh năm 2002 ( vắng mặt ) .

Trú tại: Khối 20, phường MH, thị xã HM, Nghệ An.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có tại hồ sơ, và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 15/8/2019, Chu Văn C, Huỳnh Đ, Trần Đăng T1, Ngô Trí TA, Nguyễn Văn V, Đậu Danh Th và Nguyễn Văn Tr đang ngồi uống bia ở nhà anh Nguyễn Đức B (tại xóm 01, xã Q thị xã HM) thì Chu Văn C nghe điện thoại của Nguyễn Văn H nói về chuyện trước đó C yêu cầu H trả tiền nợ cho Lê Hội H. Quá trình nói chuyện hai bên xẩy ra mâu thuẫn cãi nhau, C và H thách thức đánh nhau. Sau khi nghe cuộc gọi của H xong, C nói với Huỳnh Đ “có thằng đòi chặt chân anh” thì Đ nói “để em đến đưa chân cho hắn chặt”. Sau đó Chu Văn C quay sang nói với cả nhóm “đi với anh có chút việc”. Chu Văn C đi xe máy biển kiểm soát 37K3- 0492 chở Huỳnh Đ; Trần Đăng T1 đi xe máy Exciter biển kiểm soát 37L1- 687.57 chở Ngô Trí TA; Đậu Danh Th đi xe máy dream biển kiểm soát 37F1-7151 của Nguyễn Văn Tr chở Tr và Nguyễn Văn V đi xuống xã QL. Khi đi qua xóm S, xã QL, C dừng xe vào nhà mình lấy 02 (hai) Th kiếm ra đưa cho TA và Huỳnh Đ mỗi người cầm một kiếm. Lúc này Đ hỏi “đi mô đây anh C”, C trả lời “đi xuống đây giải quyết công việc”, thấy vậy, Nguyễn Văn Tr quay sang nói với Đậu Danh Th “về đi, tau không đi mô” nhưng Th nói đi một tý rồi tiếp tục đi xe theo Chu Văn C. Khi đi đến dốc ở ngã ba xóm ĐT, xã QL, Chu Văn C xuống xe gọi điện thoại cho Nguyễn Văn H. Một lúc sau, H cùng với Đậu Đình T đi từ nhà T cách đó khoảng 30 mét ra nơi C đang đứng đợi, T cầm theo 01 con dao nem. Khi ra đến nơi trông thấy nhóm của C có kiếm nên H và T bỏ chạy vào nhà thì Chu Văn C lấy kiếm của Huỳnh Đ rượt đuổi theo. Thấy vậy T1 lấy một chiếc gậy baton (để trong cốp xe từ trước), Huỳnh Đ lấy kiếm từ tay TA rồi cùng V và Th chạy theo C rượt H và T. Khi gần đến cổng nhà Đậu Đình T thì TA lấy lại kiếm từ tay Huỳnh Đ trèo qua bờ tường vào thềm nhà T dơ kiếm đe dọa H và T. V lấy 02 viên đá cùng Huỳnh Đ, Đậu Danh Th và Trần Đăng T1 chạy theo vào sân còn Nguyễn Văn Tr đứng ở ngoài xe không tham gia. Lúc này Chu Văn C đứng ở trong sân nhà T phía gần cổng, H và T đứng ở gần thềm nhà, hai bên chưởi bới, đe dọa chém lẫn nhau. Chu Văn C thấy vậy cầm kiếm chạy đến chém về phía Nguyễn Văn H thì H quay người bỏ chạy nên C chém trúng cẳng tay phải của H, C tiếp tục rượt theo chém tiếp thì trúng vào cẳng tay trái H. H và T chạy vào trong nhà, đóng cửa lại, cùng lúc này ông Đậu Đình Th (bố của Đậu Đình T) ra can ngăn nên nhóm của C đi về.

Tại Kết luận giám định số 220/TTPY ngày 26/8/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Nghệ An kết luận tỉ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Văn H hiện tại là 23%.

Cáo trạng số 24/2020/VKS-HS ngày 13 tháng 3 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã HM đã truy tố các bị cáo Chu Văn C, Huỳnh Đ, Ngô Trí TA, Trần Đăng T1, Nguyễn Văn V và Đậu Danh Th về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị hội đồng xét xử tuyên bố: Chu Văn C, Huỳnh Đ, Ngô Trí TA, Trần Đăng T1, Nguyễn Văn V và Đậu Danh Th phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng : Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm 0 khoản 1 điều 52, điều 58 BLHS.

Xử phạt : Bị cáo Chu Văn C từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù.

Áp dụng: Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm s khoản 1 điều 51, điều 91, điều 101, điều 58 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Trí TA từ 18 đến 24 tháng tù Áp dụng : Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 58, điều 65 BLHS.

Xử phạt: Các bị cáo Huỳnh Đ, Trần Đăng T1 mỗi bị cáo từ 24 đến 27 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 54 tháng.

Áp dụng : Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm s khoản 1 điều 51, điều 58, điều 65, điều 91, điều 101, điều 54 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn V từ 15 đến 18 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 đến 36 tháng.

Áp dụng : Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm b, s khoản 1 điều 51, điều 58, điều 91, điều 101, điều 54 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Đậu Danh Th từ 12 đến 15 tháng tù. Buộc bị cáo phải chấp hành đồng thời cả hai bản án.

Về trách nhiệm dân sự tại phiên tòa anh Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Th chưa yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các bị cáo bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh H trong vụ án này là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điều 47 BLHS; điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy 1 (một) thanh kiếm bằng thép dài 80cm; 1 (một) thanh kiếm bằng thép dài 75cm và 1 (một) chiếc gậy baton màu đen.

Chuyển giao lại cho cơ quan Công an thị xã HM 01 (một) chiếc xe máy Dream màu trắng – nâu có biển kiểm soát 37K3-0492 thu giữ của Chu Văn C để điều tra xác minh xử lý theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo Th và V thống nhất tội danh như lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa và đề nghị hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo V và Th phạm tội khi đang ở tuổi vị thành niên khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn hạn chế, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, điều kiện hoàn cảnh gia đình các bị cáo khó khăn. Các bị cáo tham gia trong vụ án với vai trò thứ yếu. Bị cáo Th đã bồi thường được một phần thiệt hại được người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Nên chỉ xử lý các bị cáo Th và V cho hưởng án treo. Đề nghị không tổng hợp hình phạt với bị cáo Th cho hưởng hình phạt song song.

Tại phiên tòa các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, tỏ rỏ sự ăn năn hối hận và xin hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1]. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại hoặc ý kiến gì về hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các tài liệu có tại hồ sơ vụ án về thời gian, diễn biến nội dung sự việc. Có căn cứ kết luận do có mâu thuẫn cá nhân trong lời nói qua điện thoại giữa Chu Văn C với Nguyễn Văn H nên vào khoảng 18 giờ 30 phút ngày 15/ 8/ 2019, tại nhà của ông Đậu Đình Th xóm ĐT xã QL, thị xã HM, Chu Văn C đã có hành vi cầm kiếm chém trúng hai cẳng tay phải và tay trái của Nguyễn Văn H gây thương tích tổn thương cơ thể cho H là 23%. Ngô Trí TA, Trần Đăng T1, Nguyễn Văn V, Huỳnh Đ và Đậu Danh Th không trực tiếp gây thương tích cho Nguyễn Văn H nhưng Ngô Trí TA cầm kiếm trèo qua tường, Trần Đăng T1 cầm 01 gậy baton, Nguyễn Văn V cầm 02 hòn đá cùng Huỳnh Đ và Đậu Danh Th đi theo Chu Văn C vào sân ông Đậu Đình Th đã tạo điều kiện giúp sức cho Chu Văn C gây thương tích cho Nguyễn Văn H.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Chu Văn C, Ngô Trí TA, Trần Đăng T1, Nguyễn Văn V, Huỳnh Đ và Đậu Danh Th đối chiếu dấu hiệu tội phạm do bộ luật hình sự quy định có đủ căn cứ kết luận phạm tội:“Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự như cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là đúng pháp luật.

Đối với Nguyễn Văn Tr có đi theo nhưng không nhằm mục đích giúp đỡ cho Chu Văn C gây thương tích, khi sự việc xẩy ra Tr không tham gia gì nên không bị truy cứu trách nhiệm hình sự là đúng pháp luật.

Nguyễn Văn H khai mâu thuẫn với Chu Văn C do C đòi nợ H tiền đánh lô đề với Lê Hội H, nhưng Lê Hội H không thừa nhận, quá trình điều tra không thu thập được chứng cứ khác nên không có cơ sở xử lý đối với Lê Hội H.

Vụ án đồng phạm, nghiêm trọng, các bị cáo đã có hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến sức khoẻ, tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trong nhân dân nên cần xử lý nghiêm nhằm giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Vai trò của các bị cáo trong vụ án này, Chu Văn C là người có hành vi nguy hiểm hơn, khởi xướng, trực tiếp thực H hành vi gây thương tích cho Nguyễn Văn H, phạm tội có tình tiết tăng nặng là xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội. Nhân thân bị cáo C năm 2016 đã bị Hạt kiểm lâm HM xử phạt vi phạm hành chính về hành vi nuôi nhốt động vật hoang dã trái phép, bị Công an thị xã HM xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe người khác nên cần xử lý nghiêm hơn.

Tuy nhiên cũng cần xem xét cho bị cáo phạm tội có tình tiết giảm nhẹ là sau khi bỏ trốn đã đến Công an trình diện, khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tác động gia đình bồi thường một phần thiệt hại. Bị cáo có bố đẻ là người có công với nhà Nước được tặng thưởng huân chương. Bản thân bị cáo trong cuộc sống đã có nhiều lần tham gia hiến máu nhân đạo. Điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bố đẻ bị bệnh tai biến cần người chăm sóc giúp đỡ. Vợ chồng bị cáo đã ly hôn có con nhỏ đang do bị cáo chịu trách nhiệm nuôi dưỡng. Nguyên nhân xảy ra xô xát một phần do bị hại gọi điện nói chuyện gây mâu thuẫn với bị cáo C.

Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ đáng kể về hình phạt cho bị cáo Chu Văn C, chỉ cần cách ly ngoài xã hội một thời gian mức như kiểm sát viên đã đề nghị. Bản thân bị cáo cũng phải thấy được đây là sự khoan hồng của pháp luật để cải tạo tốt không vi phạm pháp luật nữa.

Đối với bị cáo Trần Đăng T1 cầm gậy baton, bị cáo Huỳnh Đ cầm kiếm chạy theo C vào sân nhà ông Đậu Đình Th với ý thức đe dọa giúp sức, mức độ hành vi ít nguy hiểm hơn Chu Văn C. Các bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại, người bị hại có đơn cũng như tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bản thân bị cáo T1 và Đ đều là những thanh niên mới lớn chưa có gia đình vợ con riêng. Các bị cáo có nơi ở địa chỉ rỏ ràng. Vì vậy không cần thiết cách ly ngoài xã hội, cho các bị cáo hưởng án treo được cải tạo giáo dục tại địa phương mức như kiểm sát viên đã đề nghị tại phiên tòa cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Đối với Ngô Trí TA sau khi thấy các bị cáo chạy theo C vào nhà ông Đậu Đình Th, Ngô Trí TA chạy đến lấy kiếm tại bị cáo Đ rồi trèo tường bao vào sân nhà ông Đậu Đình Th đứng cũng chỉ với ý thức đe dọa giúp sức, không xông vào đánh anh H, mức độ hành vi nguy hiểm như Đ và T1. Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội khi đang ở lứa tuổi vị thành niên, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn hạn chế. Bị cáo có nơi ở địa chỉ rỏ ràng. Vì vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo ngoài xã hội như quan điểm của kiểm sát viên đã đề nghị. Cho bị cáo hưởng án treo được cải tạo giáo dục tại địa phương dưới mức thấp nhất của khung hình phạt cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Đối với Nguyễn Văn V, mức độ hành vi ít nguy hiểm hơn T1, Đ và TA. Bị cáo phạm tội Phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ là khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội khi đang ở lứa tuổi vị thành niên, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn hạn chế. Bị cáo có nơi ở địa chỉ rỏ ràng. Vì vậy không cần thiết cách ly ngoài xã hội, cho bị cáo hưởng án treo được cải tạo giáo dục tại địa phương dưới mức thấp nhất của khung hình phạt như kiểm sát viên đã đề nghị tại phiên tòa cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục các bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

Đối với Đậu Danh Th tham gia với vai trò thứ yếu, phạm tội Phạm tội không có tình tiết tăng nặng, có tình tiết giảm nhẹ là khai báo t hành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội khi đang ở lứa tuổi vị thành niên, khả năng nhận thức và điều khiển hành vi còn hạn chế, tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại, người bị hại có đơn cũng như tại phiên tòa xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có nơi ở địa chỉ rỏ ràng. Hành vi phạm tội của bị cáo xảy ra trước khi bị Toà án nhân dân thị xã HM xử phạt 12 tháng phạt tù cho hưởng án treo về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Vì vậy theo hướng dẫn Nghị quyết 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của HĐTP Tòa án nhân dân tối cao và quy định xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo Th ngoài xã hội như quan điểm của Kiểm sát viên đã đề nghị. Cho bị cáo hưởng án treo được cải tạo giáo dục tại địa phương mức thấp hơn bị cáo V cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Bị cáo Th phải chấp hành đồng thời hai bản án.

Về trách nhiệm dân sự, tại phiên tòa anh Nguyễn Văn H, chị Nguyễn Thị Th thống nhất trình bày sau sự việc xảy ra các bị cáo đã bồi thường một phần thiệt hại. Nay anh Nguyễn Văn H đang phải điều trị tiếp thương tích nên chưa yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các bị cáo bồi thường tiếp về sức khỏe cho anh H. Sau khi có kết quả điều trị nếu không thỏa thuận bồi thường được sẻ làm đơn yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án dân sự khác, các bị cáo cũng nhất trí là hoàn toàn tự nguyện phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Quá trình xảy ra xô xát bị cáo Chu Văn C có đập vỡ ô kính của nhà anh T nhưng anh T không yêu cầu bồi thường nên không xét.

Về vật chứng vụ án: Quá trình điều tra có thu giữ 01 (một) thanh kiếm bằng thép dài 80cm; 01 (một) thanh kiếm bằng thép dài 75cm và 01 (một) chiếc gậy baton màu đen. Đây là công cụ, hung khí các bị cáo sử dụng váo việc phạm tôi, nay đã cũ, không còn giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

Chiếc xe máy Dream màu trắng – nâu có biển kiểm soát 37K3-0492 thu giữ của Chu Văn C qua điều tra chưa xác minh rỏ nguồn gốc quyền sở hữu nên chuyển giao lại cho cơ quan Công an thị xã HM xác minh xử lý.

Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bởi những lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố các bị cáo: Chu Văn C, Huỳnh Đ, Ngô Trí TA, Trần Đăng T1, Nguyễn Văn V và Đậu Danh Th phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ : Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điểm 0 khoản 1 điều 52, điều 58 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Chu Văn C từ 30 (ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ tạm giam 16/10/2019.

Căn cứ : Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 58, điều 65 BLHS.

Xử phạt: Các bị cáo Huỳnh Đ, Trần Đăng T1 mỗi bị cáo 24 (hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (bốn mươi tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Căn cứ : Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm s khoản 1 điều 51, điều 54, điều 58, điều 65, điều 91, điều 101 BLHS.

Xử phạt :

- Bị cáo Ngô Trí TA 18 (mười tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 (ba sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm..

- Bị cáo Nguyễn Văn V 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 (ba mươi) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Căn cứ : Điểm đ khoản 2 điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51, điều 54, điều 58, điều 65, điều 91, điều 101 BLHS.

Xử phạt : Bị cáo Đậu Danh Th 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao các bị cáo Trần Đăng T1 và Huỳnh Đ cho chính quyền địa phương phường QT; Các bị cáo Ngô Trí TA và Đậu Danh Th cho chính quyền địa phương phường MH; Bị cáo Nguyễn Văn V cho chính quyền địa phương phường QD, thị xã HM, tỉnh Nghệ an nơi các bị cáo thường trú giám sát giáo dục trong thời gian thử thách án treo. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục các bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực H theo quy định tại khoản 1 điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự tại phiên tòa anh Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Th chưa yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các bị cáo bồi thường thiệt hại về sức khỏe cho anh H nên không xét. Tòa án sẻ xem xét giải quyết bằng một vụ án dân sự khác khi anh Nguyễn Văn H, bà Nguyễn Thị Th làm đơn yêu cầu.

Về vật chứng vụ án: Căn cứ điều 47 BLHS; điều 106 BLTTHS Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) thanh kiếm bằng thép dài 80cm; 01 (một) thanh kiếm bằng thép dài 75cm và 01 (một) chiếc gậy baton màu đen.

Chuyển giao lại cho cơ quan Công an thị xã HM 01 (một) chiếc xe máy Dream màu trắng – nâu có biển kiểm soát 37K3-0492 thu giữ của Chu Văn C để điều tra xác minh xử lý theo quy định của pháp luật.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an với Chi cục Thi hành án thị xã HM ngày 15 tháng 3 năm 2020) Về án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 BLTTHS, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của UBTVQH.

Các bị cáo Chu Văn C, Huỳnh Đ, Ngô Trí TA, Trần Đăng T1, Nguyễn Văn V và Đậu Danh Th mỗi bị cáo phải nạp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo, người bị hại, người có quyền nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo lên toà án nhân dân tỉnh Nghệ an.

Người có quyền nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn nói trên kể từ ngày nhận được bản sao bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

306
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 34/2020/HSST ngày 08/05/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:34/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/05/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;