TOÀ ÁN NHÂN DÂN HỆN NL, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 34/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 25 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân Hện NL, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 146/2020/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2020 về Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 27 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên toà số 36/2020/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ H; sinh năm: 1992; nơi cư trú: Phố N (nay là Đường PC), thị trấn NL, Hện NL, tỉnh Thanh Hoá.
- Bị đơn: Anh Lê Đình T; sinh năm: 1990; nơi cư trú: Thôn LC, xã NÂ, Hện NL, tỉnh Thanh Hoá.
Tại phiên toà vắng mặt chị Hồng, anh T. Chị Hồng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 22/6/2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Vũ H trình bày: Chị và anh Lê Đình T kết hôn tự nguyện, đăng ký ngày 14/12/2010 tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) thị trấn NL, Hện NL, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng đã bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm.
Ngoài ra, anh T ham chơi cờ bạc, không chịu tu chí làm ăn. Vợ chồng chị đã sống ly thân 07 năm nay, không ai quan tâm tới ai. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh T.
Về con cái: Vợ chồng có 01 con chung là cháu Lê Vũ Gia H, sinh ngày 03/5/2012. Hiện cháu đang ở với chị. Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu H, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản: Chị Hồng không yêu cầu Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã triệu tập hợp lệ anh Lê Đình T để làm bản tự khai, trình bày ý kiến về những nội dung yêu cầu khởi kiện của chị Hồng nhưng anh T không có mặt nên không có lời khai của anh T và các bên không thống nhất được các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.
Ý kiến của Viện kiểm sát:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử (sau đây viết tắt là HĐXX), Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS); chị Hồng đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật, anh T không thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định của pháp luật.
Về nội dung vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 56; 57; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Xử cho chị Vũ H được ly hôn anh Lê Đình T. Giao cháu Lê Vũ Gia H, sinh ngày 03/5/2012 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Về tố tụng:
Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho các bên đương sự nhưng anh Lê Đình T không có mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh T theo quy định tại khoản 3 điều 210 BLTTDS.
Anh T đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh T đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 điều 207 BLTTDS.
Toà án cũng đã triệu tập hợp lệ anh T lần thứ hai đến Tòa án để tham gia phiên toà nhưng anh T vẫn không có mặt mà không có lý do nên căn cứ quy định tại điểm b khoản 2 điều 227, khoản 3 điều 228 BLTTDS Toà án xét xử vắng mặt anh T.
Chị Vũ H đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, căn cứ quy định tại khoản 1 điều 227, khoản 1 điều 228 BLTTDS, Toà án xét xử vắng mặt chị H.
[2] Về hôn nhân: Chị Vũ H và anh Lê Đình T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 14/12/2010 tại UBND thị trấn NL, Hện NL, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hợp, bất đồng quan điểm. Vợ chồng đã sống ly thân 07 năm nay, không ai quan tâm tới ai. Tòa án cũng đã nhiều lần triệu tập anh T lên làm việc để anh T được bày tỏ quan điểm, ý kiến và nguyện vọng của mình nhưng anh T đều không có mặt, thể hiện anh T không thiết tha hàn gắn tình cảm vợ chồng. Điều đó chứng tỏ chị H, anh T đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Nghĩ nên căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 xử cho chị H được ly hôn anh T.
[3] Về con cái: Chị H và anh T có 01 con chung. Xét thấy, hiện tại cháu đang ở với chị H. Cháu có nguyện vọng muốn được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn. Để không bị xáo trộn cuộc sống và đảm bảo sự phát triển ổn định về mọi mặt cho cháu, cũng như theo nguyện vọng của cháu, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cháu H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận ý kiến của chị H, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về tài sản: Chị Hồng không yêu cầu nên miễn xét.
[5] Về án phí: Chị Hồng phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 51; 56; 57; 58; 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147; 227; 228; 271; 273 BLTTDS; Điều 6; điểm a khoản 1 Điều 24; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án:
1. Về hôn nhân: Xử cho chị Vũ H được ly hôn anh Lê Đình T.
2. Về con cái: Giao cháu Lê Vũ Gia H, sinh ngày 03/5/2012 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh T có quyền qua lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Vũ H phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự Hện NL, theo biên lai số AA/2019/0011845 ngày 08/7/2020. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.
Án xử công khai sơ thẩm, vắng mặt chị Hồng, anh T. Chị H, anh T có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án.
Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 34/2020/HNGĐ-ST ngày 25/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 34/2020/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Lặc - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/09/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về