Bản án 34/2020/HNGĐ-PT ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 34/2020/HNGĐ-PT NGÀY 30/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình phúc thẩm thụ lý số 39/2020/TLPT-HNGĐ ngày 17/11/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con chung”.

Do bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 21/2020/HNGĐ-ST ngày 09/09/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 39/2020/QĐ-PT ngày 14/12/2020 giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1984. HKTT: thôn Đ, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương.

Hiện trú tại: thôn Th Đ, xã Th V, huyện K, tỉnh Hải Dương.

2- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1983.

HKTT và hiện ở: thôn Đ, xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương.

3- Người kháng cáo: Anh Nguyễn Văn H là bị đơn trong vụ án. ( Chị Th và anh H có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo bản án sơ thẩm số 21/2020/HNGĐ-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương thì vụ án có nội dung tóm tắt như sau:

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ, chị Th trình bày: Chị và anh H được tự do tìm hiểu và tự nguyện kết hôn đăng ký tại UBND xã C, huyện K, tỉnh Hải Dương vào ngày 09/4/2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được 3 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng là do không hợp nhau về tính tình, vợ chồng luôn bất đồng quan điểm sống. Mặt khác, anh H mải chơi bời, rượu chè dẫn đến vợ chồng thường xuyên cãi cọ lẫn nhau. Đến tháng 4/2019, vợ chồng mâu thuẫn trầm trọng nên chị Th đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, hai bên đã cắt đứt hoàn toàn về tình cảm và kinh tế từ đó cho đến nay. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng thực sự không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H để giải phóng cho đôi bên khỏi giàng buộc.

Tại bản tự khai, biên bản lấy lời khai và các tài liệu có trong hồ sơ, anh H xác định về thời gian kết hôn và điều kiện kết hôn đúng như chị Th trình bày. Về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng theo anh H trình bày là do anh thỉnh thoảng có uống rượu say nên vợ chồng xảy ra việc cãi cọ, lời qua tiếng lại. Mặt khác, do vợ chồng không bảo ban được nhau trong việc làm ăn nên kinh tế gia đình khó khăn, không ổn định. Chị Th có tư tưởng đi nước ngoài, không quan tâm đến gia đình, chồng con dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng sâu sắc. Chị Th đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 4/2019 đến nay, vợ chồng đã sống ly thân từ đó không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay anh H xác định thực sự tình cảm vợ chồng giữa anh và chị Th không còn, chị Th xin ly hôn anh hoàn toàn đồng ý.

Về con chung: Chị Th và anh H cùng xác định vợ chồng có 02 con chung là Nguyễn Khánh Th1, sinh ngày 21/10/2014 và Nguyễn Khánh V, sinh ngày 06/10/2016. Nay quan điểm của chị Th xin được trực tiếp nuôi cháu V, cháu Th1 để anh H trực tiếp nuôi dưỡng. Quan điểm của anh H xin được nuôi cả hai con chung và tự nguyện không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị Th và anh H cùng xác định không có nên đều không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tại bản án sơ thẩm số 21/2020/HNGĐ-ST ngày 09/9/2020, TAND huyện K, tỉnh Hải Dương quyết định:

Căn cứ vào: Điều 51, Điều 56, khoản 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 39 Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Thảo, cho ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn H.

2. Về quan hệ con chung: Giao cháu Nguyễn Khánh V, sinh ngày 06/10/2016 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Giao cháu Nguyễn Khánh Th1, sinh ngày 21/10/2014 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Không bên nào phải cấp dưỡng cho bên nào.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Ngoài ra bản án còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 23/9/2020, bị đơn anh Nguyễn Văn H kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết về phần nuôi con chung của bản án sơ thẩm số 21/2020/HNGĐ-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Chị Nguyễn Thị Th và anh Nguyễn Văn H thống nhất thỏa thuận như sau: Chị Th trực tiếp nuôi dưỡng hai con Nguyễn Khánh V, sinh ngày 06/10/2016 và Nguyễn Khánh Th1, sinh ngày 21/10/2014. Chị Th tự nguyện không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Từ khi thụ lý đến thời điểm xét xử Thẩm phán đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên toà, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với các đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về hướng giải quyết vụ án: Do anh Hợi và chị Thảo đã thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1].Về tố tụng: Kháng cáo của bị đơn anh Nguyễn Văn H trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 273 BLTTDS nên là kháng cáo hợp lệ, được cấp phúc thẩm xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

[2].Về nội dung:

Tại phiên tòa phúc thẩm chị Th và anh H đã thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con như sau:

Giao chị Th trực tiếp nuôi dưỡng hai con là Nguyễn Khánh V, sinh ngày 06/10/2016 và Nguyễn Khánh Th1, sinh ngày 21/10/2014. Chị Th tự nguyện không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Xét thấy tại phiên tòa anh H và chị Th đã thống nhất thỏa thuận được với nhau về việc giao con, bản thân chị Th cũng có việc làm và chỗ ở ổn định, có thu nhập hàng tháng đảm bảo được cuộc sống nuôi dưỡng và chăm con chung, mặt khác bố mẹ chị Th có quan điểm sẽ hỗ trợ chị Th trong việc chăm sóc con. Do vậy việc anh chị thỏa thuận giao con cho chị Th nuôi là hoàn toàn phù hợp. Việc thỏa thuận của các đương sự là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội nên Hội đồng xét xử ghi nhận. Do đó, Tòa án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm về phần nuôi con chung công nhận sự thỏa thuận của hai bên đương sự như lời đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương.

Các quyết định của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, Hội đồng xét xử không xem xét.

[3].Về án phí: Do các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án nên anh H phải chịu án phí dân sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ khoản Khoản 2 Điều 148; Điều 300; khoản 2 Điều 308 ; Điều 51, Điều 56, khoản 3 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 39 Bộ luật dân sự; khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

Chấp nhận sự thỏa thuận của anh Nguyễn Văn H và chị Nguyễn Thị Th. Sửa bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 21/2020/HNGĐ-ST ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hải Dương về phần nuôi con.

1. Về quan hệ con chung: Giao cháu Nguyễn Khánh V, sinh ngày 06/10/2016 và cháu Nguyễn Khánh Th1, sinh ngày 21/10/2014 cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Chấp nhận sự tự nguyện của chị Th không yêu cầu anh Hợi cấp dưỡng nuôi con cùng chị.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

2. Về án phí phúc thẩm: Anh Nguyễn Văn H phải chịu 300.000đ án phí phúc thẩm, được đối trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AB/2018/0001569 ngày 06/10/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương. Anh H đã thi hành xong phần án phí.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án 30/12/2020.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

465
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2020/HNGĐ-PT ngày 30/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:34/2020/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;