Bản án 34/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 34/2019/HS-ST NGÀY 29/10/2019 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 33/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2019/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

NGUYỄN HỒNG Q, sinh năm 1990; Tại: Bình Thuận; Nơi cư trú: Thôn E, xã B, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Phật giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn S, sinh năm 1965 và bà Phùng Thị L, sinh năm 1969; Tiền án, tiền sự: Không; Vợ, con: Chưa có; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con đầu; Nhân thân:

- Tại Bản án số 08/2012/HSST ngày 09/02/2012 bị Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/11/2012 tại Trại giam Sông Cái - Tổng cục VIII - Bộ Công an;

- Tại Bản án số 91/2013/HSST ngày 29/11/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Hồng Q kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; Tại Bản án số 43/2014/HSPT ngày 10/3/2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử bác kháng cáo giữ nguyên mức hình phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình phạt tù ngày 15/4/2015 tại Trại giam A2 - Tổng cục VIII - Bộ Công an; Ngày 28/7/2017 bị Chủ tịch UBND xã B ra Quyết định xử phạt hành chính số 208/QĐ-UBND với biện pháp giáo dục tại xã về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 21/6/2019; Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an huyện Tánh Linh.

+ Bị hại:

- Nguyễn Văn M, sinh ngày 11/4/2008; Đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Văn M: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1973 và bà Huỳnh Thị Thu H, sinh năm 1982; Cùng nơi cư trú: Xóm 02, thôn V, xã M, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.

- Phạm Thị Quỳnh N, sinh ngày 28/11/2008; Đại diện hợp pháp của bị hại Phạm Thị Quỳnh N: Bà Huỳnh Thị A, sinh năm 1974; Cùng nơi cư trú: Xóm 07, Thôn E, xã B, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.

+ Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Nguyễn Văn Đ, sinh ngày 11/11/2003; Người đại diện hợp pháp của Nguyễn Văn Đ: Bà Nguyễn Thị Y, sinh năm 1972; Cùng nơi cư trú: Thôn E, xã B, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.

- Nguyễn Anh V(Cu), sinh ngày 13/4/2003; Nơi cư trú: Xóm 09, thôn A, xã B, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.

- Huỳnh Ngọc T, sinh ngày 30/5/2004; Nơi cư trú: Xóm 07, thôn A, xã B, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.

- Nguyễn Thanh T, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Thôn E, xã B, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận.

Tại phiên tòa có mặt: Bị cáo Nguyễn Hồng Q; bị hại Phạm Thị Quỳnh N;

bà Huỳnh Thị A; Nguyễn Văn Đ; Nguyễn Thanh T.

Vắng mặt: Nguyễn Văn Đ; bà Nguyễn Thị Y; Nguyễn Anh V(Cu); Huỳnh Ngọc T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trong 02 ngày 17/5/2019 và 28/5/2019, Nguyễn Hồng Q đã thực hiện 02 vụ “Cướp giật tài sản” trên địa bàn huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, cụ thể:

- Vụ thứ 1: Khoảng 19 giờ ngày 17/5/2019, Q đi đến nhà chị Huỳnh Thị Thu H ở thôn 02, xã M, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, Q nhìn thấy cháu Nguyễn Văn M (con chị H) ngồi trên võng bên hông nhà đang cầm chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A37F màu hồng nhạt, thì Q đi từ phía sau lưng đến giật lấy chiếc điện thoại rồi bỏ chạy ra phía sau nhà chị H để về nhà. Khoảng 20 giờ ngày 18/5/2019, Q nhờ Nguyễn Văn Đ đi bán dùm chiếc điện thoại, Đ đồng ý và cầm điện thoại OPPO A37F đi bán cho Nguyễn Anh V với giá 700.000đ (V không biết nguồn gốc chiếc điện thoại). V đưa trước 500.000đ cho Đ. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 19/5/2019 do V không trả đủ tiền, nên Đ trả lại tiền cho V và lấy điện thoại OPPO A37F bán cho Huỳnh Ngọc T với giá 800.000đ (T không biết nguồn gốc chiếc điện thoại), Đ đưa hết tiền cho Q tiêu xài. Ngày 19/6/2019, Huỳnh Ngọc T giao nộp điện thoại OPPO A37F cho Công an.

- Tại Bản kết luận định giá tài sản số 33 ngày 19/6/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tánh Linh kết luận: Điện thoại di động hiệu OPPO A37F của chị Huỳnh Thị Thu H trị giá 1.267.000đ.

- Vụ thứ 2: Khoảng 19 giờ ngày 28/5/2019, Nguyễn Hồng Q đi đến trước tiệm may của chị Huỳnh Thị A ở Thôn E, xã B, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận thì nhìn thấy cháu Phạm Thị Quỳnh N (con chị A) đang ngồi trước tiệm cầm chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F9 màu đỏ, Q đi từ phía sau lưng đến giật lấy chiếc điện thoại rồi bỏ chạy về nhà tháo sim ra. Khoảng 19 giờ ngày 29/5/2019, Nguyễn Hồng Q nhờ Nguyễn Văn Đ đi bán dùm chiếc điện thoại, Đ đồng ý cầm điện thoại OPPO F9 về nhà nói với bà Nguyễn Thị Y (mẹ của Đ) “Điện thoại của thằng bạn ở Tà Pao đi thành phố cần bán gấp”, nên bà Y mua với giá 1.800.000đ. Đ đưa hết tiền cho Q tiêu xài. Ngày 19/6/2019, bà Nguyễn Thị Y giao nộp điện thoại OPPO F9 cho Công an.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 37 ngày 22/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tánh Linh kết luận: Điện thoại di động hiệu OPPO F9 của chị Huỳnh Thị A trị giá 4.000.000đ.

- Về vật chứng trong vụ án: Ngày 12/9/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tánh Linh trả lại 02 điện thoại di động hiệu OPPO A37 và OPPO F9 cho các chủ sở hữu hợp pháp là Huỳnh Thị Thu H và Huỳnh Thị A. Riêng điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu trắng đen thuộc sở hữu của bị cáo Nguyễn Hồng Q, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra trả lại cho Q.

Tại Bản cáo trạng số 33/CT-VKSND-TL ngày 23/9/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh truy tố bị cáo Nguyễn Hồng Q về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh: Giữ nguyên quan điểm như bản Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Nguyễn Hồng Q mức án từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù.

- Ý kiến của bị cáo: Không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Ý kiến của các bị hại Phạm Thị Quỳnh N và người đại diện hợp pháp bà Huỳnh Thị A: Không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát; Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật, xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Ý kiến của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Thanh T: Không tranh luận với đại diện Viện kiểm sát; Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Tánh Linh, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, các bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Hồng Q đều khai nhận: Khoảng 19h các ngày 17/5/2019 và ngày 28/5/2019, Nguyễn Hồng Q đã có hành vi cướp giật 01 điện thoại di động hiệu OPPO A37F của cháu Nguyễn Văn M sinh ngày 11/4/2008 và 01 điện thoại di động hiệu OPPO F9 của cháu Phạm Thị Quỳnh N sinh ngày 28/11/2008.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra; Bản kết luận định giá tài sản; Bản cáo trạng; lời khai của các bị hại, của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng đã thu giữ cũng như các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp trong hồ sơ vụ án. Nên có đủ căn cứ để kết luận: Trong khoảng thời gian từ ngày 17/5/2019 đến ngày 28/5/2019, tại địa bàn xã M và xã B, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, bị cáo Nguyễn Hồng Q với thủ đoạn lợi dụng sự lơ là mất cảnh giác của các bị hại, đã lén lút tiếp cận, bất ngờ nhiều lần cướp giật điện thoại di động của các bị hại với tổng giá trị tài sản đã được định giá là 5.267.000 đồng.

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất an ninh trật tự, gây tâm lý hoang mang trong đời sống nhân dân tại địa phương. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và khung hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự. Do đó Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Tại thời điểm bị chiếm đoạt tài sản, bị hại Nguyễn Văn M mới 11 năm 01 tháng 06 ngày tuổi còn bị hại Phạm Thị Quỳnh N mới 10 năm 06 tháng tuổi; do đó bị cáo đã phạm vào tình tiết định khung hình phạt “phạm tội đối với người dưới 16 tuổi” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo thực hiện hành vi cướp giật tài sản 02 lần vào ngày 17/5/2019 và ngày 28/5/2019, do đó phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử sẽ xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6] Xét thấy, bị cáo có quá trình nhân thân rất xấu, đã nhiều lần bị kết án về hành vi “Trộm cắp tài sản” và bị xử phạt hành chính về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”, sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương sinh sống, bị cáo không chịu tu tâm dưỡng tính, không chịu lao động chân chính để trở thành công dân tốt cho xã hội mà trái lại còn tiếp tục phạm tội với tính chất mức độ hành vi phạm tội ngày càng nguy hiểm hơn. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc để răn đe giáo dục đối với bị cáo và có tác dụng ngăn ngừa tội phạm tương tự phát sinh.

[7] Đối với hành vi tiêu thụ tài sản của Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Anh V, Huỳnh Ngọc T, Nguyễn Thị Y. Các đối tượng này khi thực hiện hành vi mua điện thoại, không biết rõ nguồn gốc tài sản là do Nguyễn Hồng Q phạm tội mà có nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Điều 323 Bộ luật hình sự. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét đối với hành vi này.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Tánh Linh đã ra quyết định xử lý vật chứng trả lại 02 điện thoại di động hiệu OPPO A37 và OPPO F9 cho các chủ sở hữu là bà Huỳnh Thị Thu H và bà Huỳnh Thị A. Riêng điện thoại di động hiệu Nokia 1280 màu trắng đen thuộc sở hữu của bị Nguyễn Hồng Q, Cơ quan điều tra cũng đã trả lại cho bị cáo. Sau khi nhận lại tài sản, các chủ sở hữu tài sản không có ý kiến gì, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

Sau khi sự việc bị phát hiện, Huỳnh Ngọc T đã giao nộp chiếc điện thoại di động hiệu OPPO A37 và Nguyễn Thị Y đã giao nộp chiếc điện thoại di động hiệu OPPO F9 cho Cơ quan điều tra. Quá trình điều tra, Huỳnh Ngọc T và Nguyễn Thị Y không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Hồng Q phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hồng Q phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự Xử phạt: Nguyễn Hồng Q 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù; Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 21/6/2019.

2. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Hồng Q phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (29/10/2019). Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:34/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;