Bản án 34/2019/HSST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 34/2019/HSST NGÀY 29/01/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 01 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 12/2018/HSST, ngày 10 tháng 12 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 15/2018/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 12 năm 2018, Quyết định hoãn phiên tòa số 03/2019/HSST-QĐ ngày 08 tháng 01 năm 2019 đối với bị cáo:

Đỗ Đức Th, sinh năm 1995. HKTT và Nơi ở hiện nay: Đường M, phường Tr, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Đức A, sinh năm 1963 và bà Cao Thị L, sinh năm 1969; Có vợ là Nguyễn Thị Thanh H; Tiền án; Tiền sự: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 03/9/2018 đến ngày 06/9/2018 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện đang bị tạm giam trong vụ án khác; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 04h30 phút ngày 03/9/2018, tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố H, tỉnh Thanh Hóa đang làm nhiệm vụ tại khu vực sảnh phía trước quầy lễ tân khách sạn Ph thuộc phường Đ, thành phố H thì phát hiện Đỗ Đức Th có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra. Th liền ném xuống đất 01 gói nilong bên trong chứa 01 gói KT (2x2)cm chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 gói chứa 01 viên nén màu cam. Th tự giác nhặt gói nilong lên giao nộp cho tổ công tác và khai nhận đó là ma túy Th tàng trữ nhằm mục đích sử dụng. Đồng thời Th khai nhận đang cất giấu ở trên vòng VIP 5 của khách sạn Ph 02 gói ma túy khác. Tổ công tác đã cùng Th lên phòng, Th tự giác lấy 02 gói ma túy gồm 01 gói bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng và 01 gói bên trong chứa 01 viên nén màu cam giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ tang vật.

Tại cơ quan điều tra, Đỗ Đức Th khai nhận: Khoảng 18h ngày 02/9/2018, Th đi đến Cầu mới phường Đ, thành phố H mua của một người thanh niên khoảng 30 tuổi không biết tên tuổi, địa chỉ 02 gói Ketamine và 02 gói thuốc lắc giá 1.000.000đ để sử dụng. Sau đó Thuận đi đến khách sạn Ph thuê phòng VIP 5 để nghỉ. Khi vào phòng, Th đã cất giấu 01 gói Ketamine và 01 gói thuốc lắc ở phía sau rèm cửa trong phòng. Còn 01 gói Ketamie và 01 gói thuốc lắc Th để trong túi quần. Đến 02h sáng Th gọi điện cho Trương Thùy L ở khu 1 Thị trấn Th, huyện X, tỉnh Thanh Hóa là bạn đến phòng để nói chuyện. Đến khoảng 4h30 phút ngày 03/9/2018 Th đi xuống sảnh tầng 1 khách sạn thì bị tổ công tác Công an thành phố H phát hiện bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 1822/MT-PC09 ngày 06/9/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: Các hạt tinh thể  màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,554g, loại Ketamine; 02 viên nén màu cam của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng trọng lượng 0,861g, loại MDMA.

Đối với người thanh niên bán ma túy cho Th, Th khai không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Tại cáo trạng số 01/CT-VKS, ngày 10/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Đỗ Đức Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Đỗ Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị xử phạt bị cáo Đỗ Đức Th mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo  không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Đỗ Đức Th thừa nhận: Vào khoảng 04h30 phút ngày 03/9/2018, tại khách sạn Ph, phường Đ, thành phố H; Tổ công tác điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố H phát hiện, bắt quả tang Đỗ Đức Th đang tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Theo kết luận giám định tang vật thu giữ của Th là ma túy trọng lượng 0,861g, loại MDMA và 0,554g loại Ketamine.

Lời nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Đỗ Đức Th phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo biết rõ ma túy là một trong những tệ nạn nguy hiểm cho xã hội, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của nhiều gia đình. Ma túy đã làm kiệt quệ về sức khỏe và tài sản, là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm, gây lan truyền căn bệnh HIV/ADS. Do nghiện ma túy nên bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy nhằm mục đích sử dụng. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất gây nghiện của Nhà nước và còn gây mất trật tự trị an xã hội.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra truy tố và tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Với tính chất vụ án nghiêm trọng, xét cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Do bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,694g loại Ketamine và 0,484g MDMA (còn lại sau giám định) là mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật .

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Đức Th phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Đỗ Đức Th 15 (Mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ bắt chấp hành bản án, được trừ đi 03 ngày tạm giữ (Từ ngày 03/9/2018 đến ngày 06/9/2018).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa 0,694g loại MDMA và 0,484g Ketamine (còn lại sau giám định).

Hiện số tang vật và tài sản đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 56/THA ngày 17/12/2018 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H với Công an thành phố H.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14. Bị cáo Đỗ Đức Th phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

219
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2019/HSST ngày 29/01/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;