Bản án 34/2019/HSST ngày 16/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 34/2019/HSST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16/5/2019, tại trụ Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 28/2019/HSST ngày 29 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2019/QĐXXST-HS ngày 03/5/2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn H, sinh năm 1996; Tên gọi khác: Không có; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn 14, xóm B, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Văn hóa: 12/12; Con ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1972 và con bà Trần Thị H, sinh năm 1975; bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự, tiền án: không Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/01/2019 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bắc Giang, có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Vũ Văn Đ, sinh năm 1972 (mặt)

2/ Bà Trần Thị H1, sinh năm 1975 (mặt)

Đều TQ: Thôn 14, xóm B, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Người làm chứng:

1/ Anh Phạm Ngọc H2, sinh năm 1987 (mặt)

TQ: Thôn B, xã Ng, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

2/ Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1994 (mặt)

TQ: Khu 3, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 07 giờ ngày 03/01/2019, tại quán Internet QT ở khu 3, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, Công an huyện L bắt quả tang bị cáo Vũ Văn H đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ:

- 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy, thu giữ tại túi áo khoác phía dưới bên trái H đang mặc (QT1)

- 03 (ba) đoạn ống nhựa gồm 02 (hai) đoạn màu xanh, 01 (một) đoạn màu trắng, 01 (một) mảnh giấy bạc có cả 02 (hai) mặt màu trắng bạc tất cả thu giữ tại túi áo khoác phía bên dưới bên trong, bên trái H đang mặc.

- 01 (một) tờ tiền mệnh giá 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng) thu giữ tại túi quần phía sau bên phải H đang mặc

- 01 (một) điện thoại di động mày vàng - đen trên máy có chữ “Vertu”, số Imei: 355287003623147, máy cũ đã qua sử dụng, thu giữ tại túi áo khoác bên trái phía dưới H đang mặc.

- 01 (một) chiếc xe máy Yamaha màu đỏ đen, BKS 98N5-4010, số khung RLCS 16S208Y017055, số máy 16S2-017055.

Vật chứng nghi là ma túy thu giữ khi bắt quả tang, Cơ quan điều tra đã niêm phong gửi giám định. Tại Kết luận giám định số 18/KL-KTHS ngày 04/01/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang kết luận:

“Trong phong bì có ký hiệu “QT1” đã được niêm phong gửi giám định: Chất tinh thể màu trắng đựng trong 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu đỏ là chất ma túy Methamphetamine, có tổng khối lượng: 0,347 gam” (BL 32).

Tại cơ quan điều tra, bị cáo Vũ Văn H khai nhận: Bản thân H là đối tượng nghiện ma túy. Khoảng 07 giờ ngày 03/01/2019, Vũ Văn H đi xe máy biển kiểm soát 98N5-4010 từ nhà đến quán Internet QT ở khu 3, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang chơi. Tại đây, H có gặp bạn mới quen tên là V nhà ở B, V có nhờ H mua hộ 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền ma túy đá. H đồng ý và một mình đi xe máy của H đến nhà chị Vũ Thị L, sinh năm 1970 ở khu 3, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, tại đây H gọi cửa và đưa 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) qua khe cửa nhà bà L, từ bên trong có người đưa cho H qua khe cửa 01 (một) túi nilon màu trắng, một đầu có rãnh khóa nhựa và viền màu đỏ, bên trong đựng chất tinh thể màu trắng nghi là ma túy đá. H cầm túi ma túy đá cất vào túi áo khoác bên ngoài phía dưới đang mặc và đi về quán Internet QT thì bị lực lượng Công an kiểm tra bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại cơ quan điều tra, Vũ Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 32/CT-VKS-LG ngày 28/3/2019 Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã truy tố bị cáo Vũ Văn H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng người, đúng tội, bị cáo không bị oan. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

Những người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng các tài liệu có trong hồ sơ đã khai rõ diễn biến họ đã chứng kiến khi cơ quan điều tra bắt quả tang bị cáo Vũ Văn Hư có hành vi cất giữ trái phép ma túy Methamphetamine trong người.

Sau phần xét hỏi, tại phần tranh luận Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L đã phân tích tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân bị cáo, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đã giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn H từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo ngày 03/01/2019, đề nghị miễn phạt bổ sung bị cáo; đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư có niêm phong chất ma túy, 03 đoạn ống nhựa và 01 mảnh giấy; đề nghị trả lại bị cáo 01 điện thoại di động, số tiền 50.000 đồng thu giữ của bị cáo, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án, đồng thời đề nghị buộc bị cáo phải chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi và quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trước cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã truy tố; lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của những người làm chứng, với Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 03/01/2019, cũng như các tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm xảy ra tội phạm, cũng như các kết luận giám định, đã thể hiện:

Hồi 07 giờ ngày 03/01/2019, tại quán Internet QT ở khu 3, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, Công an huyện L bắt quả tang bị cáo Vũ Văn H đang có hành vi cất giữ trái phép tại túi áo khoác phía dưới bên trái đang mặc 0,347 gam ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng.

Như vậy, HĐXX đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất của vụ án thấy: Vụ án này có 01 bị cáo phạm tội với lỗi cố ý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của nhà nước, gây mất trật tự trị an xã hội. nó còn là nguyên nhân và điều kiện phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Nó cũng là một trong những nguyên nhân gây mâu thuẫn và tan vỡ hạnh phúc gia đình. Đối với loại tội phạm về ma túy, Nhà nước ta đã và đang có những chế tài hết sức nghiêm khắc. Song, các tội phạm về ma túy vẫn diễn biến phức tạp, khó lường. Do đó cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội như đại diện VKSND huyện đã đề nghị.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đều thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Số lượng ma túy Methamphetamine bị cáo tàng trữ không nhiều (0,347 gam).

Do vậy, cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

[6] Hiện nay, bị cáo đang bị tạm giam, để đảm bảo cho việc thi hành án, HĐXX thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo là phù hợp với Điều 329- BLTTHS.

[7] Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, sống chung cùng gia đình chưa có tài sản riêng và chưa có thu nhập ổn định, nên Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo là có căn cứ.

[8] Đối với số ma túy thu giữ của H, H khai mua qua khe cửa nhà Vũ Thị L, sinh năm 1970 ở khu 3, thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Cơ quan điều tra đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Vũ Thị L, thời điểm khám xét L không có nhà, chỉ có Trần Văn T1 sinh năm 1995 ở thôn 14, xã Hương Lạc, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang và Đào Văn T2, sinh năm 1992 đều ở thôn He, xã Ng, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Cơ quan điều tra đã triệu tâp và đấu tranh với Vũ Thị L, Trần Văn T1, Đào Văn T2 nhưng không chứng minh được việc ba người này có liên quan đến việc bán ma túy cho H nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với người đã nhờ H đi mua ma túy hộ, H chỉ biết tên là V ở B nhưng không biết nhà ở đâu nên Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp điều tra nhưng không có căn cứ xác minh làm rõ để xử lý.

[9] Ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, H khai ngày 01/01/2019, H có sử dụng ma túy tại nhà ở thôn 14, xóm B, xã H, huyện L, tỉnh Bắc Giang, Công an huyện L đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, HĐXX thấy có căn cứ.

[10] Về vật chứng của vụ án gồm: Đối với chiếc xe máy Yamaha Taurus màu đỏ đen, BKS 98N5-4010, số khung RLCS 16S208Y017055, số máy 16S2-017055, xe cũ đã qua sử dụng. Qua điều tra xác định được chiếc xe này thuộc sở hữu của vợ chồng ông Vũ Văn Đ và bà Trần Thị H là bố mẹ đẻ của H cho H mượn. Việc H mượn xe sử dụng vào việc mua ma túy thì vợ chồng ông Đ không biết. Ngày 28/02/2019, Công an huyện L đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe máy trên cho ông Đ. HĐXX thấy là có căn cứ.

Vật chứng còn lại: 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT”, một mặt được niêm phong bằng dấu đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Giang, có chữ ký cùng tên của Hoàng Xuân Ph, Lăng Hoài A; một mặt được niêm phong bằng dấu đỏ của Công an thị trấn K, huyện L, tỉnh Bắc Giang, có chữ ký cùng tên của Vũ Văn H và những người liên quan bên trong chứa mẫu vật hoàn lại sau giám định; 01 (một) điện thoại di độnng màu vàng –đen trên máy có dòng chữ “Vertu” số Imei: 355287003623147, máy cũ đã qua sử dụng; số tiền 50.000 đồng (năm mươi nghìn đồng) tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, được niêm phong trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “Tiền thu giữ trong vụ Vũ Văn H”, được chuyển đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện L để quản giữ theo quy định.

HĐXX thấy:

- 01 phong bì thư niêm phong ký hiệu “QT” trong có chứa chất ma túy là vật cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại di động cũ nhãn hiệu “Vertu” màu vàng đen có số Imei 355287003623147, số tiền 50.000 đồng đựng trong 01bì thư dán kín niêm phong có ghi “Tiền thu giữ trong vụ Vũ Văn H” là tài sản hợp pháp của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- 01 (một) mảnh giấy bạc có cả hai mặt màu trắng bạc; 03 (ba) đoạn ống nhựa gồm 02 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu trắng là phương tiện để sử dụng ma túy trái phép, không có giá trị nên tịch thu tiêu hủy.

[11] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Với những nhận định trên đây, HĐXX thấy những ý kiến phát biểu đề nghị về đường lối giải quyết vụ án của đại diện VKDND huyện là có căn cứ chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý’’. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS. các Điều 293, 331, 332 và 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn H 15 (mười lăm) tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 03/01/2019. Miễn phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 01 phong bì thư đã được gián kín niêm phong, bên trong có ma túy Methamphetamine hoàn lại sau giám định.

Trả lại bị cáo 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vertu màu vàng đen có số Imei 355287003623147, 01 phong bì thư bên trong có 50.000 đồng, nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) mảnh giấy bạc có cả hai mặt màu trắng bạc; 03 (ba) đoạn ống nhựa gồm 02 đoạn màu xanh, 01 đoạn màu trắng.

(Đặc điểm vật chứng của vụ án theo như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục thi hành án dân sự huyện L).

3- Về án phí: Áp dụng Điều 135 và 136 - BLTTHS và Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Vũ Văn H phải chịu 200.000 đồng tiền án phí HSST.

4- Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

147
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2019/HSST ngày 16/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:34/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;