TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY NAM, TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 34/2019/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON GIỮA CHỊ T VỚI ANH N
Ngày 30 tháng 5 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 59/2019/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 02 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 89/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 4 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 104/2019/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Hồ Thị Ngọc T, sinh năm: 1996, địa chỉ: Ấp AL, xã AT, huyện M, tỉnh Bến Tre (Có mặt).
2. Bị đơn: Anh Trần Văn N, sinh năm: 1993, địa chỉ: Ấp BT, xã TB, huyện M, tỉnh Bến Tre (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 02 năm 2019, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn là chị Hồ Thị Ngọc T trình bày:
Chị và anh Trần Văn N tự nguyện chung sống với nhau có đăng ký kết hôn vào năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã TB, huyện M, tỉnh Bến Tre. Sau khi cưới nhau, vợ chồng sống chung với gia đình chồng tại ấp Bình Thạnh, xã TB. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng rất hạnh phúc, đến cuối năm 2017 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, anh N ham chơi không lo làm việc để phát triển kinh tế gia đình. Chị và anh N không còn sống chung với nhau từ cuối năm 2017 cho đến nay. Nhận thấy thời gian không sống chung với nhau đã lâu, tình cảm vợ chồng không còn và không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị xin được ly hôn với anh N.
Trong thời gian chung sống, chị và anh N có 02 con chung tên Trần Thị Ngọc M, sinh ngày 01 tháng 4 năm 2016 và Trần Thị Ngọc B, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2018. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai con, không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con.
Chị và anh N không có tài sản chung, không có nợ chung.
Do bị đơn là anh Trần Văn N vắng mặt tại các buổi hòa giải và phiên tòa nên không có trình bày.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M phát biểu ý kiến:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về nội dung: Kiểm sát viên trình bày ý kiến phát biểu về nội dung và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Tòa án nhận định:
[1] Về tố tụng dân sự: Chị Hồ Thị Ngọc T có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân huyện M giải quyết ly hôn, tranh chấp về nuôi con giữa chị với anh Trần Văn N. Theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Bến Tre.
Anh Trần Văn N là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh N.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Hồ Thị Ngọc T và anh Trần Văn N chung sống có đăng ký kết hôn năm 2016 tại Ủy ban nhân dân xã TB, huyện M, tỉnh Bến Tre nên quan hệ hôn nhân của chị T và anh N được xem là hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, chị T cho rằng chị và anh N mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh N ham chơi không làm việc để phát triển kinh tế gia đình, chị và anh N không còn sống chung với nhau từ cuối năm 2017 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến nhau, tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau nên chị xin ly hôn với anh N. Tòa án đã thông báo cho anh N đến để hòa giải, tìm biện pháp hàn gắn đoàn tụ nhưng anh N không đến.
Như vậy, cho thấy tình trạng hôn nhân của chị T và anh N đã trầm trọng, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị T để giải quyết cho chị được ly hôn với anh N.
[3] Về con chung: Chị T và anh N có 02 con chung tên Trần Thị Ngọc M, sinh ngày 01 tháng 4 năm 2016 và Trần Thị Ngọc B, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2018. Chị T yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cả hai cháu, không yêu cầu anh N cấp dưỡng cho con.
Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại cả hai cháu còn rất nhỏ, cháu B dưới 36 tháng tuổi và đang sống cùng với chị T. Do đó, để đảm bảo tâm sinh lý của các cháu được ổn định nên cần giao cháu M và cháu B cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng. Đối với việc cấp dưỡng cho con do chị T không có yêu cầu nên không xem xét.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị T khai chị và anh N không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị T phải chịu 300.000 đồng.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; khoản 2 Điều 227, Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội;
Tuyên xử:
Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hồ Thị Ngọc T. Chị Hồ Thị Ngọc T được ly hôn với anh Trần Văn N.
Về con chung: Chị Hồ Thị Ngọc T và anh Trần Văn N có hai con chung tên Trần Thị Ngọc M, sinh ngày 01 tháng 4 năm 2016 và Trần Thị Ngọc B, sinh ngày 17 tháng 6 năm 2018.
Chị Hồ Thị Ngọc T được tiếp tục trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Trần Thị Ngọc M và Trần Thị Ngọc B.
Ghi nhận chị Hồ Thị Ngọc T không yêu cầu anh Trần Văn N cấp dưỡng cho con.
Anh Trần Văn N được quyền thăm nom con chung, không ai được quyền cản trở anh thực hiện quyền này.
Vì lợi ích của con, một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Tòa án quyết định thay đổi việc cấp dưỡng cho con.
Trong trường hợp có yêu cầu của một hoặc cả hai bên hoặc của cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị Hồ Thị Ngọc T trình bày không có tài sản chung, không có nợ chung nên không xem xét.
Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Hồ Thị Ngọc T phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0021982 ngày 20 tháng 02 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M. Chị Hồ Thị Ngọc T đã nộp đủ án phí.
Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đối với đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 30/05/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con giữa chị T với anh N
Số hiệu: | 34/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Nam - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/05/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về