Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 08/07/2019 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT - TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 34/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/07/2019 VỀ LY HÔN

Ngày 08 tháng 7 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng; xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 835/2018/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Cao Bá D, sinh năm: 1973; cư trú tại tổ X, thôn Đ, xã X, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

Bị đơn: Bà Hoàng Thị H, sinh năm: 1974; cư trú tại tổ X, thôn Đ, xã X, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nguyên đơn ông Cao Bá D trình bày: Ông và bà H kết hôn với nhau vào năm 2000, trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt nhưng không tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. Sau khi cưới vợ chồng chung sống tại tổ 3 thôn Đa Quý, xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bà H không lo lắng quan tâm đến chồng, sống chỉ biết tiền bạc, tài sản, ông làm ra bao nhiêu tiền bạc, tài sản thì bà H cất giữ và quản lý. Ngoài ra, bà H còn đi coi bói để yểm bùa ngải làm ông ngu dại nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. Vì vậy mà ông bệnh hoạn nên gia đình ông phải tìm thầy về giải bùa ngải. Từ năm 2016 cho đến nay ông đã chuyển về nhà cha mẹ ruột sinh sống và vợ chồng đã sống ly thân nhau. Nay ông xác định tình cảm vợ chồng không còn nên ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà H. Đối với các tin nhắn điện thoại do bà H cung cấp tại Tòa án, ông thừa nhận do ông nhắn cho người phụ nữ khác nhưng chỉ là đùa giỡn trên mạng, ông không có tình cảm gì với người phụ nữ này. Về con chung, ông xác định vợ chồng có 02 con chung là Cao Hoàng Anh D, sinh ngày 06/12/2000 và Cao Hoàng Hồng D sinh ngày 31/5/2004. Khi ly hôn ông đồng ý giao con Cao Hoàng Hồng D cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con, ông sẽ cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/tháng. Đối với cháu Cao Hoàng Anh D đã đủ tuổi trưởng thành và phát triển bình thường nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, ông xác định vợ chồng có tài sản chung nhưng để vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết với nhau, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, ông xác định vợ chồng có nợ của Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội - Chi nhánh Lâm Đồng tổng số tiền 772.258.333đ, trong đó tiền gốc là 750.000.000đ, tiền lãi tính đến ngày 18/6/2019 là 22.258.333đ và nợ ông Cao X số tiền mua đất còn thiếu là 400.000.000đ. Tuy nhiên, Ngân hàng và ông Cao X có đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết số nợ trên trong vụ án này nên ông cũng không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết mà để ông và bà H sẽ có trách nhiệm trả nợ.

Bị đơn bà Hoàng Thị H trình bày: Bà và ông D kết hôn với nhau vào năm 2000, trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến tháng 04/2017 thì  phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông D có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, từ đó tỏ thái độ lạnh nhạt, hắt hủi, đánh đập bà và các con. Bà đã lén chụp được một số tin nhắn trong điện thoại của ông D nhắn tin hẹn hò với người phụ nữ này. Hiện nay ông D đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống nên bà và ông D đã sống ly thân nhau được khoảng 10 tháng. Nay ông D làm đơn xin ly hôn thì bà không đồng ý ly hôn, nguyện vọng của bà mong muốn ông D suy nghĩ lại để về đoàn tụ gia đình cùng bà nuôi dạy con chung vì hiện giờ các con còn quá nhỏ cần có sự chăm sóc dạy dỗ của cả cha lẫn mẹ và bà vẫn còn yêu thương ông D. Về con chung, bà xác định vợ chồng có 02 con chung là Cao Hoàng Anh D, sinh ngày 06/12/2000 và Cao Hoàng Hồng D, sinh ngày 31/05/2004.

Hiện các con đang ở với bà. Nếu Tòa án giải quyết cho ông D được ly hôn thì bà có nguyện vọng được nuôi cháu D và yêu cầu ông D phải cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/tháng, đối với cháu Cao Hoàng Anh D đã đủ tuổi trưởng thành và phát triển bình thường nên bà không có yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung, bà xác định vợ chồng có tài sản chung là nhà, đất trồng cà phê tọa lạc tại tổ 3, thôn Đa Quý, xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt. Do bà có nguyện vọng được đoàn tụ gia đình nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về vấn đề tài sản chung của vợ chồng. Về nợ chung, bà xác định vợ chồng có nợ Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân Đội - Chi nhánh Lâm Đồng tổng số tiền gốc, lãi tính đến ngày 18/6/2019 là 772.258.333đ và nợ ông Cao X số tiền 400.000.000đ. Đối với nợ chung, Ngân hàng và ông Cao X có đơn không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết số nợ trên trong vụ án này nên bà cũng không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa,

Ông D vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với bà Hòa. Về con chung, ông đồng ý giao con Cao Hoàng Hồng D cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con, ông sẽ cấp dưỡng nuôi con 3.000.000đ/tháng. Về tài sản chung, ông xác định để vợ chồng tự thỏa thuận giải quyết với nhau nên ông không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung, ông xác định vợ chồng có nợ của Ngân hàng TMCP Quân Đội - Chi nhánh Lâm Đồng tổng số tiền tính đến ngày 18/6/2019 là 772.258.333đ, nợ ông Cao X số tiền mua đất còn thiếu là 400.000.000đ. Ngân hàng và ông Cao X đã có đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết số nợ trên trong vụ án nên ông cũng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà H mong muốn được đoàn tụ gia đình để nuôi dạy con chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt tham gia phiên toà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, các đương sự và Hội đồng xét xử. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Cao Bá D; về con chung, tài sản chung và nợ chung do không chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông D nên không đặt ra để xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Xuất phát từ việc vợ chồng mâu thuẫn với nhau trong cuộc sống nên ông Cao Bá D làm đơn xin ly hôn với bà Hoàng Thị H, vì vậy có đủ cơ sở xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt - tỉnh Lâm Đồng có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nói trên.

[2] Qua xem xét thì thấy rằng: Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Ông D và bà H kết hôn với nhau vào năm 2000, trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Xuân Thọ, thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được một  thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do ông D có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, còn bà H trong cách xử sự do không kiềm chế và thiếu tỉnh táo khi phát hiện chồng có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác đã tin vào bói toán để tìm cách níu giữ tình cảm của ông D. Mặc dù ông D không thừa nhận mình có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, tuy nhiên qua nội dung các tin nhắn có trong điện thoại của ông D nhắn cho người phụ nữ khác trong một thời gian dài do bà H cung cấp có những lời lẽ thể hiện tình cảm yêu đương, quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Điều này đã chứng minh việc ông D có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác.

[2.2] Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa ông D, bà H chưa đến mức trầm trọng, việc ông D có quan hệ với người phụ nữ khác rồi làm đơn xin ly hôn với bà H là không có căn cứ. Bởi lẽ bản thân ông D là người có lỗi trước nhưng không nhận ra được cái sai của mình để sửa chữa nhằm cải thiện mối quan hệ vợ chồng lại bỏ về nhà bố mẹ đẻ sinh sống và làm đơn ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa bà H không đồng ý ly hôn, xác định vẫn còn tình cảm với ông D và tha thiết mong được đoàn tụ gia đình để nuôi dạy con chung; điều này thể hiện tình cảm vợ chồng ông D, bà H vẫn còn; mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng để không còn có thể hàn gắn được.

 [2.3] Để đảm bảo quyền lợi của bà H là phụ nữ cũng như tạo điều kiện về thời gian để ông D suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với gia đình, đồng thời tạo điều kiện cho ông D và bà H cơ hội hàn gắn tình cảm để xây dựng hạnh phúc gia đình và nuôi dạy con chung nên căn cứ Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; không chấp nhận đơn xin ly hôn của ông D đối với bà H là hoàn toàn phù hợp.

[3] Do không chấp nhận đơn xin ly hôn của ông D nên không xem xét giải quyết về con chung, tài sản chung.

[4] Về nợ chung: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội - Chi nhánh Lâm Đồng và ông Cao X có đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết số nợ trong vụ án này, ông D, bà H cũng không yêu cầu nên không đặt ra để xem xét giải quyết.

 [5] Về án phí: Ông D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Khoản 1 Điều 28, Khoản 1 Điều 35, Khoản 1 Điều 39, Điều 147 và Điều 266 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

- Áp dụng các Điều 51, Điều 53 và Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Cao Bá D về việc “Xin ly hôn” với bà Hoàng Thị H.

2. Về án phí: Ông Cao Bá D phải chịu 300.000đ án phí Dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí Dân sự sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số AA/2016/0011728 ngày 24 tháng 12 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng; ông D đã nộp đủ án phí.

Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2019/HNGĐ-ST ngày 08/07/2019 về ly hôn

Số hiệu:34/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;