Bản án 34/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội cố ý gây thương tích

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 34/2017/HSST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 16 tháng 8 năm 2017, tại tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 35/2017/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Hồ Văn L, sinh năm 1995 tại Quảng Nam; nơi ĐKNHTT: Thôn 11, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông; chỗ ở hiện nay: Không ổn định; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ văn hoá: 09/12; con ông Hồ Văn Đ, sinh năm 1957 và con bà Phan Thị D, sinh năm 1960; Nhân thân: Ngày 21/9/2016 bị Công an huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông ra

Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại đến sức khỏe của người khác số tiền 2.500.000đồng, bị cáo chưa chấp hành; bị bắt tạm giam từ ngày 24/52017 – Có mặt.

Những người bị hại:

- Anh Vương Nhật A, sinh năm 1990 – Vắng mặt

- Anh Vương Nhật P, sinh năm 1993 – Có mặt

Cùng trú tại: Thôn 14, xã W, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.

NHẬN THẤY

Bị cáo Hồ Văn L bị Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh ĐắkNông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Ngày 23/02/2016, trong quá trình ăn nhậu tại tổ 6, thôn 14, xã W, huyện Đ, giữa ông Nguyễn Ngọc H (SN: 1963) với anh Vương Nhật A (SN: 1990) và anh Vương Nhật P (SN: 1993) – đều trú cùng thôn 14, xã W xảy ra mâu thuẫn. Anh A và anh P có dùng tay, chân đấm đá ông H nhưng không xảy ra thương tích gì. Sau đó, được mọi người can ngăn thì bỏ về. Đến trưa ngày 24/02/2016, ông H kể lại cho con trai mình là Nguyễn Ngọc H1 (SN: 1995) nghe sự việc bị anh A và P đánh. H1 nghe xong thì xin số điện thoại của anh P thông qua bạn bè. H1 gọi điện thoại cho anh P và hai bên thách thức đánh nhau.

Đến khoảng 11 giờ ngày 25/02/2016, H1 đến nhà Hồ Văn L (SN: 1995) tại thôn 11, xã N, huyện Đ để chơi. Tại đây, H1 và L cùng gọi Lê Quý H (SN: 1996, trú tại: thôn 9, xã Nhân Cơ) và Hoàng Văn Q (SN: 1997; trú tại: thôn 14, xã W) đến cùng tổ chức ăn nhậu. Trong lúc nhậu, H1 kể lại sự việc bố H1 bị anh A và anh P đánh. Đồng thời rủ L, H và Q vào nhà anh P đánh lại thì cả nhóm đồng ý. Lúc này, H gọi điện thoại cho anh P và hỏi “Mày đang ở đâu?”, anh P nói là “Tao đang ở nhà”. H1 nói “Tý nữa tao gặp mày tại hội trường thôn nói chuyện”. H1 quay sang hỏi L là “nhà mày còn cây mã tấu nào không?”. L vào nhà mang ra 01 cây xăm gạo (làm bằng kim loại dài khoảng 30cm, có một đầu nhọn) và 03 con dao (làm bằng kim loại, dài khoảng 01m, lưỡi sắc, nhọn). Chuẩn bị xong, H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, kiểu dáng TAURUS mang BKS: 48H6 - 5840 (chiếc xe này H mượn của anh Trần Hồng H– SN: 1988, trú tại: thôn 9, xã N, khi cho mượn anh Hải không biết H dùng làm phương tiện đi đánh nhau) chở H1 ngồi sau cầm cây xăm gạo và 01 con dao. Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda kiểu dáng Ware màu trắng đỏ, không rõ BKS (chiếc xe này Q mua của một người không rõ nhân thân) chở L ngồi sau cầm 02 con dao. Cả nhóm đi về hướng nhà anh A và anh P. Khi đến gần hội trường thôn 14, cách lô cao su khoảng 100m thì cả nhóm để xe lại và xuống đi bộ. H1 cầm cây xăm gạo, còn H, Q và L mỗi người cầm 01 con dao cùng tiến về phía hội trường thôn. Lúc này anh Vương Nhật A và anh Vương Nhật P đang đứng tại vườn cao su của nhà ông Nguyễn Văn T (SN: 1969) gần hội trường thôn 14. A và P mỗi người cầm một cây gậy bằng gỗ, dài khoảng 60cm. Khi nhìn thấy A và P thì H1 cầm cây xăm gạo lao về phía P thì bị P dùng gậy gỗ đánh trúng tay trái của H1. H1 dùng cây xăm gạo đâm P nhưng không trúng. Thấy vậy, A cầm gậy nhảy vào đánh H1 thì bị H cầm dao chém trúng đỉnh đầu bên trái của A. A đưa tay trái lên đỡ thì bị H chém trúng vào mặt sau cẳng tay trái. A lao vào giằng dao trên tay H. H1 tiếp tục xông vào đâm P thì P bị trượt ngã. Lúc này, H1 cầm cây xăm gạo đâm vào mông phải của P nên P bỏ chạy. Q và L cầm dao có chém ra xung quanh nhưng không trúng ai. Ngay lúc đó, người dân xung quanh chạy ra can ngăn nên tất cả dừng lại. Nhóm của H1 bỏ về, còn A và P được người dân chở đến bệnh viện cấp cứu. Sau khi gây thương tích cho anh A và P xong, H1 cầm cây xăm gạo và 03 con dao về nhà mình cất giữ. H đem trả chiếc xe mô tô mang BKS: 48H6 - 5840 cho anh Trần Hồng H.

Tại các bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 434, 435 ngày 27/9/2016 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Đắk Nông kết luận (Bút lục số: 100, 101): anh Vương Nhật P tổn thương ở mông phải do bị đâm bằng vật nhọn. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 1% (Một phần trăm). Anh Vương Nhật A: “mẻ xương hộp sọ vùng đỉnh; mẻ 1/3 giữa xương trụ tay trái; sẹo vết thương đầu và cẳng tay trái; các tổn thương do bị chém bằng vật sắc gây nên. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra là 12% (mười hai phần trăm)”.

Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã truy tìm 01 cây xăm gạo bằng kim loại dài 30cm và 03 con dao mà các bị can dùng gây thương tích nhưng không tìm thấy.

Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda kiểu dáng Ware màu trắng đỏ, không rõ BKS mà Q sử dụng làm phương tiện phạm tội nhưng sau đó bán cho một người đàn ông không rõ nhân thân ở khu vực xã N thì Cơ quan điều tra đã truy tìm nhưng chưa thấy.

Đối với hành vi của Nguyễn Ngọc H1, Lê Quý H và Hoàng Văn Q đã được xử lý tại Bản án số: 23/2017/HSST ngày 26/6/2017, của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp. tỉnh Đắk Nông.

Đối với anh Vương Nhật A và Vương Nhật P mặc dù có hành vi dùng tay, chân đánh ông Nguyễn Ngọc H vào ngày 23/02/2016 nhưng không có thương tích gì và ông H cũng có đơn từ chối giám định, Cơ quan CSĐT công an huyện Đắk R’Lấp cũng đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính nên không đề cập xử lý.

Tại bản cáo trạng số 36/Ctr-VKS ngày 04 tháng 7 năm 2017 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện để xét xử bị cáo Hồ Văn L về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại khoản 2 Điều 104 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận: Sau khi bị cáo H1 rủ đi vào nhà anh P để giải quyết mâu thuẫn vì trước đó anh P, anh A có đánh ông Nguyễn Ngọc H (là bố của bị cáo H1), bị cáo đã đồng ý và vào nhà lấy 01 cây xăm gạo và 03 con dao mang đi. Khi đến tại hội trường thôn 14, xã W, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thì bị cáo phát hiện anh P, anh A là người quen nên bị cáo không tham gia đánh mà tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi của mình.

Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp , tỉnh Đắk Nông vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 2 Điều 104; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 33 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Hồ Văn L từ 15 đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày (24/5/2017).

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập xử lý.

Về vật chứng của vụ án: Đã được xử lý tại Bản án số 23/2017/HSST ngày26/6/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông nên không đề cập giải quyết.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ , ý kiến kiểm sát viên, lời khai của bị cáo, lời khai của những người tham gia tố tụng khác có trong hồ sơ vụ án.

XÉT THẤY

Lời khai của bị cáo cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, phải biết, cũng như pháp luật buộc bị cáo phải biết sức khỏe, tính mạng của con người là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ. Xuất phát từ mâu thuẫn giữa ông Nguyễn Ngọc H (là bố đẻ của Nguyễn Ngọc H1) với anh Vương Nhật A và Vương Nhật P trước đó, nên ngày 24/02/2016 khi nghe bị cáo Nguyễn Ngọc H1 rủ bị cáo cùng với bị cáo H và bị cáo Q vào thôn 14, xã W, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông tìm anh Vương Nhật A và Vương Nhật P để đánh trả thù. Bị cáo đã đồng ý ngay và vào nhà của mình lấy 01 cây xăm gạo và 03 con dao đưa cho các bị cáo để gây án. Hậu quả làm cho anh Vương Nhật A bị thương tích với tỷ lệ 12% và anh Vương Nhật P bị thương tích với tỷ lệ là 1%. Còn việc bị cáo cho rằng sau khi đến hội trường thôn 14, xã W, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông thì bị cáo phát hiện anh P, anh A là người quen nên bị cáo không tham gia đánh mà tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi là không có căn cứ. Bởi lẽ khi găp anh A, anh P là người quen bị cáo không ngăn cản hành vi phạm tội của các bị cáo khác. Sau khi bị các đối tượng dùng cây đánh rớt dao trên tay, bị cáo tiếp tục nhặt dao và cầm dao quơ qua, qua lại. Điều đó thể hiện ý thức phạm tội của bị cáo tới cùng. Vì vậy, đã có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Hồ Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 104 của Bộ luật hình sự.Tại khoản 1, khoản 2 Điều 104 Bộ luật hình sự qui định:

 “1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm, hoặc bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm: 

a) Dùng hung khí nguy hiểm.

2. Phạm tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% hoặc từ 11% đến 30%, nhưng thuộc một trong cáctrường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Xét tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo gây ra là nghiêm trọng. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến sức khỏe của ng ười khác được pháp luật hình sự bảo vệ, đồng thời gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Do vậy, cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hì nh sự và nhân thân của bị cáo nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, có ý thức chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đồng thời răn đe, phòng ngừa chung tội phạm.

Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Ngọc H1 là người chủ mưu, rủ rê lôi kéo các bị cáo H, Q, L thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo L khi được bị cáo H1 rủ đã đồng ý tham gia và vào nhà lấy 01 cây xăm gạo và 03 con dao mang đi, tuy không gây thương tích cho ai nhưng bị cáo cầm dao quơ qua, qua lại để hỗ trợ các bị cáo khác đánh anh A, anh P nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với vai trò đồng phạm.

Xét nhân thân bị cáo thì thấy trước khi phạm tội bị cáo không có tiền án, tiền sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương và bị bắt theo lênh truy nã của Công an huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông, bị cáo không khắc phục và cũng như không tác động gia đình khắc hậu quả cho người bị hại, việc gia đình bị cáo cho rằng đã bồi thường cho người hại số tiền 6.600.00đ, bị cáo không biết việc gia đình bị cáo đã bồi thường số tiền trên. Tại phiên tòa bị cáo không ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình mà bị cáo còn quanh co chối tội. Vì vậy không có căn cứ xem xét để áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự đối với bị cáo được. Việc người bị hại đã có đơn xin bãi nại và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định khoản 2 Điều 46 của Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập xử lý.

Về vật chứng của vụ án: Đã được xử lý tại Bản án số 23/2017/HSST ngày 26/6/2017, của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông nên không đề cập giải quyết.

Xét các chứng cứ buộc tội của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự là không có căn cứ; bởi lẽ sau khi phạm tội bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương và bị bắt theo lênh truy nã của Công an huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông làm ảnh  hưởng đến hoạt động bình thường của Cơ quan điều tra, kéo dài vụ án; tại phiên tòa bị cáo không ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình mà còn quanh co chối tội; bị cáo không khắc phục hậu quả cho người bị hại, việc gia đình bị cáo khắc khục cho người bị hại số tiền 6.600.000đ bị cáo cho rằng không biết việc gia đình đã khắc phục hậu quả trên. Do vậy HĐXX không chấp nhận đề nghị nêu trên của Viện kiểm sát là có căn cứ và phù hợp.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng khoản 2 Điều 104, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Hồ Văn L 02 (Hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/5/2017.

2. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập xử lý.

3. Về vật chứng của vụ án: Đã được xử lý tại Bản án số 23/2017/HSST ngày 26/6/2017, của Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông nên không đề cập giải quyết.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hồ Văn L phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo; người bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

326
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 34/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:34/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;