TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐĂK NÔNG
BẢN ÁN 34/2017/DS-PT NGÀY 18/07/2017 VỀ VIỆC TRANH CHẤP LỐI ĐI
Ngày 18 tháng 7 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Nông , xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sư thụ lý số 26/2017/TLPT-DS ngày 12/5/2017 về “tranh chấp lôi đi”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngày 31/3/2017 của Tòa án nhân dân huyên T, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 26/2017/QĐ-PT ngày 12/6/2017 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Phạm Văn P - Có mặt.
Chị Phạm Thị L - Có mặt.
- Bị đơn: Anh Hà Minh V - Có mặt.
Chị Đặng Thị Kim N - Vắng mặt, đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai).
Cùng địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông.
- Ngươi lam chưng:
+ NLC1 - Có mặt.
Địa chỉ: Thôn 2, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông.
+ NLC2– Vắng mặt.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông.
+ NLC3 - Có mặt.
Địa chỉ: Thôn 8, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông.
+ NLC4 - Có mặt.
Địa chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông.
- Người kháng cáo: Bị đơn anh Hà Minh V – Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 12/01/2016 của anh Phạm Văn P, chị Phạm Thị L và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn trình bày:
Năm 2007, anh chị có nhận chuyển nhương môt thưa đât cua NLC2, đia chỉ: Thôn 6, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông. Tại thời điểm nhận chuyển nhượng đất đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AL 666681, thưa đât số 42, tơ bản đồ sô 108, diên tich 24.766 m2, cấp ngày 28/12/2007, đứng tên NLC2. Năm 2012 hoàn tất thủ tục chuyển nhượng sang tên cho anh P, chị L.
Khi nhận chuyển nhương đất của NLC2 đã có con đường đi vào rẫy ở phía đông nam gi áp đất NLC1 (nay la anh Hà Minh V ). Con đương nay trươc đây do ba con trong xom thông nhât mỗi gia đình tư bo ra môt phân đất để làm đương đi chung cua xom , có chiều rộng 04m chay dai tư gia đinh ông Nguyê n Văn T đên gia đinh anh chị là cuối cùng. Hàng năm anh chị vân đong tiên đê tu sưa đương.
Năm 2008, gia đinh anh Hà Minh V nhân chuyên nhương đất cua NLC1, lúc này trên đất của NLC1 đã có con đường đi chung, đến ngày 19/8/2014, anh V trông hang trụ tiêu trên con đường , làm con đương hẹp lại chiều rộng khoảng 02m, không đu cho xe ô tô, máy cày đi lại chở cà phê, phân bón phục vụ sản xuất. Hiên nay ngoai con đương na y gia đinh anh chị không con con đương nao khác để đi lại . Vì vậy, anh chi khơi kiên yêu câu Toà án giải quyết buôc anh V chị N mơ lại con đườngnhư trước đây vơi chiêu rông4m, chiêu dai la73m.
Anh Hà Minh V trình bày : Vào đầ u năm 2008 anh co nhân chuyên nhương môt thưa đât cua NLC1, tại thôn 6, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông, diên tích khoảng 1,8ha, tư cân : Phía đông giáp suôi, phía tây giáp đất anh Thanh M, phía nam giáp đất anh Đ, phía bắc giáp đât anh P. Khi sang nhương hai bên co viêt giây tay không co công chưng , chưng thưc. Hiên trang đât khi mua đa trông cà phê , có một con đường đất rộng khoảng 2,5m đi tư nha ông T đên mep rây nhà anh. Khi ban rây thi NLC1 không nói cho anh là có con đường đi chung của xóm đi từ nhà anh đến nhà anh P.
Đến khoảng năm 2009, anh P tự ý mở đường từ rẫy nhà anh P đi ngang qua rẫy nhà anh nối với con đường của xóm , kích thước con đường khoảng 2m đến 2,5m. Thơi điêm anh P làm đường thì anh không co mặt ở nha , khi về biết được gia đình anh P đã mở đường nhưng anh cũng không có ý kiến gì . Do con đường đi ngang qua sân và gần nhà ở, khách ra vào nhà anh P chạy xe nhanh, vơi tôc đô cao dê gâ y nguy hiêm cho ngươi đi qua , nên vào năm 2014 anh trông môt hang tru gỗ bên đương, nhằm hạn chế bớt tốc độ. Hiên tai con đương rông khoảng 02m đên 2,5m, vân đu đê xe cang đi qua. Nay anh P, chị L khởi kiện yêu cầu gia đình anh phải mở lại con đường chiều rộng 04m như trước đây anh không chấp nhận, vì kích thước con đường trước đây chỉ khoảng 02m. Anh thừa nhận ngoài con đường này thì anh P không con con đương nao khac đê đi vao rây. Anh đông y mơ môt con đương cho anh P đi lại nhưng ơ vi tri khac , không phải là vị trí con đương cũ trước đây.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngay 31/3/2017 của Tòa án nhân dân huyên T đa quyêt đinh:
Châp nhân môt phân yêu câu khơi kiên cua đông nguyên đơn.
Anh Phạm Văn P và chị Phạm Thị L đươc quyên đi lai trên con đương thuôc quyên sơ hưu cua anh Hà Minh V có kích thước chiều rộng 03m, chiêu dai 73m, vị trí: phía đông giáp đất anh Hà Minh V dài 73m, phía tây giáp đất anh Hà Minh V dài 73m, phía nam giáp đường đi chung dài 03m, phía bắc giáp đất của gia đinh anh P dài 03m toa lac tai thôn 6, xã Đ, huyên T , tỉnh Đắk Nông . Anh
Phạm Văn P và chị Phạm Thị L có trách nhiệm trả cho anh Hà Minh V, chị Đặng Thị Kim N sô tiên 5.000.000 đông.
Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm tuyên về phần án phí , chi phi xem xet thâm đinh tai chô, chi phi đinh gia tai san va quyên khang cao cua cac đương sư.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 18/4/2017 anh Hà Minh V làm đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm xem xét một cách chính xác, khách quan, toàn diện, mở lối đi khác cho hộ anh P, chị L để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của gia đình anh.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Nguyên đơn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, người kháng cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị HĐXX giải quyết theo pháp luật.
Đai diên Viên kiêm sat nhân dân tinh Đăk Nông phat biêu y kiên:
Về tố tụng : Ngươi tham gia tô tung va n gươi tiên hanh tô tung đa thưc hiên đung quy đinh cua Bộ luật Tố tụng dân sự tai Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nội dung: Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, đề nghị HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 308 của BLTTDS. Không chấp nhận kháng cáo của anh Hà Minh V, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngay 31/3/2017 của Tòa án nhân dân huyên T.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ tài liệu có trong hồ sơ, kết quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử xét thấy:
[1]. Anh V kháng cáo cho rằng anh chấp nhận cho gia đình anh P mơ lôi đi khác, không phải trên con đường cũ hiện nay đang sử dụng. Xét thấy do con đường đi được các hộ dân tự bỏ đất của gia đình mình để mở có chiều dài khoảng hơn 01 km, đoạn đường nối từ đất của gia đình anh V đến đất gia đình anh P đang sử dụng, trước đây do NLC4 (chủ đất cũ) tự bỏ đất của gia đình anh để mở, sau đó NLC4 chuyển nhượng lại cho NLC1, năm 2008 NLC1 chuyển nhượng cho anh V. Như vậy, con đường này đã có từ trước, sử dụng ổn định, nhưng khi làm thủ tục sang tên quyền sử dụng đất cho anh V, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy CNQSD đất cho anh V trên toàn bộ diện tích đất, trong đó có cả con đường đi là không đúng với diện tích đất thực tế các bên chuyển nhượng. Tại phiên toà phúc thẩm, anh P xác định nếu phải mở lại con đường mới cách sân nhà anh V khoảng 10 đến 15m thì ảnh hưởng rất nhiều đến cây trồng của gia đình anh V và đất dốc đứng không thể đi lại được. Vì vậy, để đảm bảo tính ổn định và không ảnh hưởng đến tài sản của gia đình anh V, nên để cho gia đình anh P được quyền sử dụng con đường mà từ trước đến nay gia đình anh vẫn sử dụng là phù hợp.
[2]. Anh V cho rằng do vị trí con đường sát vách nhà và sân, nên mỗi lần đi lại gây tiếng ồn ảnh hưởng đến sinh hoạt, gia đình thường xuyên bị kẻ gian trộm cắp tài sản. Xét thấy, đoạn đường này chỉ có hộ gia đinh anh P sư dung nên lương xe đi lai không nhiều . Tại phiên toà phúc thẩm anh P xác định con đường cách nhà anh V khoảng từ 04 đến 05m, một bên gia đình anh V san đất để làm sân phơi cà phê, chứ không phải đường đi sát vách nhà anh V. Việc anh V cho rằng do đường đi sát nhà nên thường xuyên bị mất trộm, nhưng anh cũng không có chứng cứ gì chưng minh viêc đi lai cua gia đinh anh P dân đên gia đinh anh V thương xuyên bi mât trôm, nên không có căn cứ chấp nhận.
[3]. Về nguồn gốc con đường đi hiện nay đang tranh chấp vào khoảng năm 1999 có một lối mòn đi bộ từ rẫy của gia đình NLC2 đến đất nhà anh T dài khoảng hơn 01 Km. Hai đến ba năm sau mọi người trong xóm cùng nhau bàn bạc mở rộng đường khoảng 03m. Năm 2005, mọi người trong xóm cùng nhau góp tiền để thuê máy múc san ủi làm lại đường, sử dụng từ đó đến nay. Tại thời điểm NLC2 chuyển nhượng đất cho gia đình anh P đã có sẵn con đường này.
[4]. Năm 2008, anh Hà Minh V nhận chuyển nhượng đất của NLC1, anh V cho rằng tại thời điểm nhận chuyển nhượng đất của NLC1 thì chỉ có một con đường đất kích thước khoảng 2,5m chạy dài từ nhà anh T đến mép rẫy của nhà anh. Đến đầu năm 2009 gia đình anh P tự ý mở đường từ rẫy của gia đình anh P đi qua rẫy của gia đình anh, nối tiếp con đường của xóm, rộng khoảng 2,5m, khi mở đường gia đình anh không biết, sau đó biết gia đình anh cũng không có ý kiến gì. Tuy nhiên, anh V cũng không đưa ra được chứng cứ gì chứng minh từ rẫy của gia đình anh đến rẫy của gia đình anh P không có đường đi và đến năm 2009 gia đình anh P mới tự ý mở đường. Mặt khác, lời khai của những người làm chứng như NLC4 (là người chuyển nhượng đất cho NLC1), NLC2(người chuyển nhượng đất cho gia đình anh P), NLC1 (là người chuyển nhượng lại đất cho anh V), NLC3 (là người trước đây thường xuyên chở hàng hoá cho gia đình NLC2) đều xác định từ lô cao su vào đến rẫy của gia đình NLC2 có một con đường do người dân tự mở để làm đường đi lại, chiều rộng khoảng 03 đến 3,5m (BL 42,50,52,54). Ngày 25/9/2007, giữa gia đình NLC1 và gia đình anh P có thoả thuận làm giấy đổi đất để nắn lại đường ranh giới phía bên đầu rẫy và mở rộng con đường kích thước chiều rộng lên 04m (chỉ ước chừng, không đo) BL 43. Như vậy, có căn cứ xác định con đường này được các hộ dân tự bỏ đất của gia đình để mở đường đi trong đó có đoạn đường từ rẫy gia đình anh P đi qua rẫy của gia đình anh V (được mở trước khi NLC1 chuyển nhượng cho anh V). Quá trình giải quyết các bên đương sự đều thừa nhận ngoài con đường đang tranh chấp này ra thì gia đình anh P không có con đường đi nào khác.
[5]. Tại biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 19/9/2016 thể hiện con đường từ rẫy của gia đình anh P đi qua rẫy của gia đình anh V dài 73m, rộng 03m. Các trụ gỗ do anh V dựng về phía đông con đường, không có cây tiêu, không làm thu hẹp con đường và không nằm trong phần diện tích con đường. Kết quả định giá diện tích đất là con đường gia đình anh P yêu cầu có giá trị 4.672.000 đồng (BL 112). Tại phiên toà sơ thẩm anh P, chị L xác định diện tích con đường nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho anh V, nên anh chị tự nguyện trả cho anh V, chị N số tiền 5.000.000 đồng giá trị quyền sử dụng đất làm đường đi (BL 168). Do đó, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Văn P, chị Phạm Thị L. Anh P, chị L được quyền đi lại trên con đường có kích thước chiều rộng 03m, chiều dài 73m, anh P, chị L phải trả cho anh V, chị N 5.000.000 đồng là có căn cứ. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Hà Minh V.
Tuy nhiên, Toà án cấp sơ thẩm chấp nhận một phần đơn khởi kiện của nguyên đơn nhưng không tuyên bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và buộc nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là có phần thiếu sót, nhưng việc thiếu sót này cũng không ảnh hưởng đến nội dung giải quyết vụ án, nên cần nêu lên để cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.
Xét quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đăk
Nông tại phiên toà là có căn cứ.
Từ phân tích và nhận định trên Hội đồng xét xử thấy không co căn cư để chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh V. Giữ nguyên bản án sơ thâm sô 03/2017/DS-ST ngay 31/3/2017 của Tòa án nhân dân huyên T.
Về án phí dân sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận, nên anh Hà Minh V phải chịu 300.000 đồng, được khấu trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm anh V đã nộp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự;
1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của anh Hà Minh V.
Giữ nguyên bàn án sơ thẩm số 03/2017/DS-ST ngay 31/3/2017 của Tòa án nhân dân huyên T, tỉnh Đăk Nông.
2. Căn cứ khoản 14 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, Điều 147, Điều 148 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 254 của Bộ luật dân sự; Khoản 1 Điêu 29 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.
Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Văn P, chị Phạm Thị L.
Anh Phạm Văn P, chị Phạm Thị L được quyền sử dụng con đường đi diện tích chiều rộng 03m, chiều dài 73m, nằm trong thửa đất số 53, tờ bản đồ số 108, diện tích 17.974m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 994303, đứng tên ông Hà Minh V. Tọa lạc tại thôn6, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông, tứ cận cụ thể:
- Phía Đông và phía Tây giap đất ông Hà Minh V dài 73m;
- Phía Nam giáp đường đi chung dai 03m;
- Phía bắc giáp đất của gia đình anh P dai 03m.
Chấp nhận việc anh Phạm Văn P , chị Phạm Thị L tự nguyện bồi thường cho anh Hà Minh V , chị Đặng Thị Kim N 5.000.000 (Năm triệu) đồng giá trị diện tích đất làm đường đi.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án không thanh toán khoản tiền phải thi hành thì phải chịu thêm tiền lãi đối với số tiền chậm thanh toán theo quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật dân sự.
Kiến nghị Uỷ ban nhân dân huyện T, tỉnh Đăk Nông điều chỉnh lại thửa đất số 53, tờ bản đồ số 108, diện tích 17.974m2, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BD 994303, cấp ngày 19/01/2011, đứng tên ông Hà Minh V. Tọa lạc tại thôn 6, xã Đ, huyên T, tỉnh Đắk Nông cho đúng với diện tích đất thực tế anh V đang sử dụng.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Phạm Văn P, chị Phạm Thị L phải chịu 250.000đ (Hai trăm năm mươi nghìn đồng), được khấu trừ 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí DSST đã nộp, theo biên lai số 008768 ngày 21/3/2016 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh Đăk Nông. Anh P, chị L còn phải nộp 50.000đ (Năm mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Anh Ha Minh V va chi Đăng Thi Kim N phai chiu 200.000 đông a n phi dân sư sơ thâm.
4. Về chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản: Anh Phạm Văn P, chị Phạm Thị L phải chịu 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), được khấu trừ 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) tạm ứng đã nộp.
5. Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Hà Minh V phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí dân sự phúc thẩm đã nộp, theo biên lai số 0004993 ngày 28/4/2017, tại Chi cục Thi hành án dân sự huyên T, tỉnh Đăk Nông.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 34/2017/DS-PT ngày 18/07/2017 về việc tranh chấp lối đi
Số hiệu: | 34/2017/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 18/07/2017 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về