Bản án 335/2019/HS-PT ngày 07/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁNNHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 335/2019/HS-PT NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 07 tháng 5 năm 2019 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số230/2019/TLPT-HS ngày 08 tháng 4 năm 2019 đối với bị cáo NguyễnVăn Tdo có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HS-ST ngày 26 tháng 02 năm 2019 của Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo:

NGUYỄN VĂN T, sinh ngày 29/6/2002; giới tính: Nam; nơi cư trú: Huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; nghề nghiệp: Tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa 9/12; con ông: Nguyễn Văn N và bà Nguyễn Thị L; vợ, con: Chưa; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ từ ngày 23/11/2018 đến ngày 01/12/2018; có mặt.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo:

Bà Nguyễn Thị L, sinh năm: 1962(mẹ đẻ); trú tại: Huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ; có mặt.

Người bào chữa:

Bà Nguyễn Thị Kim A, luật sư Công ty luật TNHH một thành viên Bảo Thiên; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn T và Phạm Minh P quen biết nhau từ giữa tháng 11/2018 tại quán Internet, T rủ P đi trộm cắp các cửa cột đèn chiếu sáng dọc các tuyến đường để bán lấy tiền tiêu sài thì P đồng ý.

Khoảng 23h ngày 22/11/2018, P gặp T ở cổng làng (quận Nam Từ Liêm, TP Hà Nội) để cùng đi trộm cắp. Khi đi T mang theo 01 tuốc nơ vít, 01 thanh lục giác hình chữ L, 04 bao tải, 02 găng tay cao su và 01 đèn pin chiếu sáng; Phú mang 01 ba lô và xe máy Yamaha Jupiter, để chở T. P điều khiển xe máy chở T đi từ khu vực Nhổn theo đường 70 đến Đại lộ Thăng Long rồi đi theo đường gom phía Bắc theo hướng từ trung tâm TP Hà Nội đi Hòa Lạc. Khi đi đến địa phận huyện Quốc Oai, TP Hà Nội thì P và T quan sát thấy khu vực này ít người qua lại, nên P dừng xe và cảnh giới để cho T xuống xe lén lút dùng thanh lục giác tháo ốc và lấy cửa cột đèn chiếu sáng cho vào ba lô đeo trước ngực. Sau khi trộm cắp được cửa cột đèn chiếu sáng ở cột này thì P tiếp tục chở T đến trộm cắp các cột đèn tiếp theo dọc tuyến đường gom phía Bắc Đại Lộ Thăng Long được 54 nắp cửa cột đèn; Đến Km số 25 thuộc địa phận xã Đồng Trúc, huyện Thạch Thất, TP Hà Nội thì Tuân tháo được 16 nắp cửa cột đèn. Khi trộm cắp được 70 nắp thì T và P cho vào bao tải và đang buộc bao tải để cho lên xe thì bị tổ tuần tra, kiểm soát của Công an huyện Quốc Oai phát hiện bắt quả tang.

* Vật chứng thu giữ:

02 chuôi tuốc nơ vít màu vàng đen và màu vàng ; 01 tuốc nơ vít màu đen một đầu có 2 cạnh, 01 đầu có 4 cạnh; 01đôi găng tay cao su màu vàng; 01 đèn pin màu trắng xanh; 01 khóa mở ốc vít lục giác đa năng hình chữ L; 02 bao tải màu trắng có chữ Hapy; 01 ba lô màu đen; 02 vỏ bao tải có in chữ Happy và GreenFeed; 70 nắp cửa cột đèn chiếu sáng, trong đó có 09 nắp có nhãn hiệu An Phú, 08 nắp cột đèn có nhãn hiệu Hapulico; 01 nắp có nhãn hiệu Tấn Phát; 04 nắp cột đèn có nhãn hiệu Thacolico; 48 nắp cột đèn chiếu sáng không có nhãn hiệu; 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter.

Ngoài vụ trộm cắp trên, bị cáo P và T khai nhận đã thực hiện 02 vụ trộm cắp khác:

Vụ thứ nhất: Khoảng 23 giờ ngày 20/11/2018 P và T đã trộm cắp khoảng 40 nắp cửa cột đèn thuộc địa phận xã Ngọc Liệp trên đường Đại Lộ Thăng Long và cho vào bao tải buộc chặt rồi cất giấu ở bụi cây ven đường. Đến khoảng 20 giờ ngày 21/11/2018, P và T đi đến lấy số nắp đã trộm cắp được mang đến bán cho chị Trần Thị B khoảng gần 50 kg rồi mua với giá 7.000đ/ kg, thanh toán 340.000đ P và T chia nhau mỗi người 170.000đ.

Vụ thứ hai: Khoảng 23 giờ ngày 21/11/2018 P và T đã trộm cắp khoảng 60 nắp cột đèn chiếu sáng thuộc địa phận xã Ngọc Liệp trên đường Đại Lộ Thăng Long và để vào bao tải cất giấu ở bụi cây ven đường, đến khoảng 20 giờ ngày 22/11/2018 P và T mang bán cho chị B, chị B khoảng gần 60 kg và trả cho P 400.000đ. P và T chia nhau mỗi người 200.000đ.

Số nắp cột đèn trên sau khi mua được chị B đã bán cho anh Nguyễn Đăng C. Anh C đã bán cho người không quen biết nên không thu hồi được.

Trong số nắp cột đèn chiếu sáng mà P và T trộm cắp thì có 16 nắp cột đèn chiếu sáng thuộc địa phận huyện Thạch Thất, TP Hà Nội. Cơ quan CSĐT Công an huyện Thạch Thất, TP Hà Nội đã ủy thác để Cơ quan CSĐT - Công an huyện Quốc Oai điều tra xử lý trong cùng vụ án.

Ngày 23/11/2018 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Quốc Oai ra yêu cầu định giá tài sản số 01 định giá 70 cánh cửa cột thép tròn côn loại 10m bằng kim loại do đối tượng P và T trộm cắpngày 23/11/2018.

Ngày 28/11/2018 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quốc Oai có kết luận định giá số 49 kết luận 70 cánh cửa cột thép tròn côn loại 10m bằng kim loại có trị giá là: 8.745.000đ .

Ngày 10/12/2018 Cơ quan CSĐT - Công an huyện Quốc Oai ra yêu cầu định giá tài sản số 05 định giá 100 cánh cửa cột thép tròn côn loại 10 m bằng kim loại do đối tượng P và T trộm cắp vào các ngày 20,21/11/2018.

Ngày 13/12/2018 Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Quốc Oai có kết luận định giá số 50 kết luận 100 cánh cửa cột thép tròn côn loại 10m bằng kim loại có trị giá là: 12.375.000đ.

Đối với chiếc xe Yamaha Jupiter, số khung 08922; số máy 08922 do bị can P sử dụng làm phương tiện đi trộm cắp, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh xác định chủ xe là ông Nguyễn Văn D - Sinh năm 1957; HKTT: Quận Thanh Xuân, TP Hà Nội (là bố vợ của P). Ông D cho P mượn xe để làm phương tiện đi lại, không biết P sử dụng chiếc xe trên để làm phương tiện đi trộm cắp tài sản, nên ngày 30/12/2018, Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông Nguyễn Văn D, sau khi nhận lại tài sản ông D không có đề nghị gì.

Ngày 30/12/2018, Cơ quan điều tra đã trả lại 09 cánh cửa cột đèn chiếu sáng nhãn hiệu An Phú cho Công ty Môi trường đô thị Xuân Mai. Sau khi nhận lại tài sản, Công ty không có đề nghị gì về dân sự.

Công ty TNHH MTV Chiếu sáng và thiết bị đô thị bị mất 179 nắp cánh cửa cột đèn chiếu sáng. Ngày 30/12/2018, Cơ quan điều tra đã trả lại 61 nắp và không có ý kiến gì. Đối với 118 cánh cửa cột đèn chiếu sáng không thu hồi được, Công ty yêu cầu các bị cáo bồi thường số tiền là 14.160.000 đ.

Đối với chị Trần Thị B và anh Nguyễn Đăng C đều làm nghề thu mua sắt vụn, khi mua nắp cửa cột đèn chiếu sáng không biết là tài sản do P và T trộm cắp nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý.

Quá trình điều tra Phạm Minh P và Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Với nội dung trên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 06/2019/HSST ngày 26/02/2019 Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Tuyên bố: Phạm Minh P và Nguyễn Văn Tphạm tội “Trộm cắp tài sản" Áp dụng khoản 1 điều 173; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm g khoản 1 điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Phạm Minh P 15( mười lăm )tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 23/11/2018 .

Áp dụng khoản 1 điều 173; Điểm i, s khoản 1 điều 51; Điểm g khoản 1 điều 52; Điều 91, Điều 101; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt : Nguyễn Văn T 9 ( chín ) tháng tù, được trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 23/11/2018 đến ngày 01/12/2018. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự:

Áp dụng Điều 586, Điều 587, Điều 589 Bộ luật Dân sự: Buộc các bị cáo liên đới bồi thường cho Công ty TNHH MTV Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nộisố tiền14.160. 0000 đồng; kỷ phần mỗi bị cáo là 7.080.000 đồng. Trong trường hợp bị cáo T không đủ tài sản để bồi thường thì bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Văn N là người giám hộ của bị cáo phải bồi thường thay cho bị cáo T.

Ngoài ra bản án còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/3/2019 bị cáo Nguyễn Văn T kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Bà Nguyễn Thị L mẹ đẻ của bị cáo có mặt tại phiên tòa đề nghị hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng án treo vì bị cáo còn ít tuổi, nhận thức hạn chế, gia đình cam đoan quản lý, giáo dục bị cáo.

Đại diện viện kiểm sát thành phố Hà Nội có quan điểm:

Tòaán sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Phạm Minh P và Nguyễn Văn Ttội trộm cắp tài sản theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Đối với yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, xét thấy trước khi phạm tội bị bắt quả tang lần này thì bị cáo và P đã thực hiện hai lần phạm tội vào các ngày khác nên việc tòa án sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng theo điểm i khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo T là chưa chính xác. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả theo quyết định của bản án sơ thẩm nên cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, đây là tình tiết giảm nhẹ mới. Trong vụán này bị cáo giữ vai trò chủ mưu, phạm tội nhiều lần, không nơi ở cố định nên không có điều kiện hưởng án treo song xem xét bị cáo phạm tội khi còn trong độ tuổi vị thành niên, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tại phiên tòa phúc thẩm có tình tiết giảm nhẹ mới nên đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo, sửabảnán sơ thẩm giảm hình phạt cho bị cáo, đề nghị: Áp dụng khoản 1 điều 173; điểm b,s khoản 1 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 91; điều 101; điều 38 Bộ luật hình sự xử bị cáo Nguyễn Văn T với mức hình phạt từ 6 đến 7 tháng tù.

Ngoài ra đề nghị rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm về việc đưa các Công ty môi trường đô thị Xuân Mai và Công ty TNHH MTV Chiếu sáng và Thiết bị đô thị Hà Nội tham gia vụ án với tư cách nguyên đơn dân sự là chưa chính xác, hai đơn vị này đều là tổ chức bị thiệt hại về tài sản do tội phạm gây ra nên phải đưa tham gia tố tụng với tư cách là bị hại.

Luật sư bào chữa cho bị cáo có quan điểm:

Không có ý kiến gì về tội danh, nhất trí với các tình tiết giảm nhẹ mà Viện kiểm sát đề nghị. Tuy nhiên đề nghị hội đồng xét xử xem xét bị cáo cóhộ khẩu và địa chỉ rõ ràng, hiện bị cáo ra Hà Nội là để học nghề nên phảiở thuê cùng mẹ và mẹ bị cáo cũng cam kết tại tòa là quản lý giáo dục bị cáo; gia đình bị cáo là gia đình có công với cách mạng, bác ruột là liệt sỹ, bà nội là bà mẹ Việt nam anh hùng. Vì vậy đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo cho bị cáo được hưởngán treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hình thức: Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn quy định của pháp luật nên được chấp nhận để xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Về tố tụng:

Các Công ty Môi trường Đô thị Xuân Mai và Công ty TNHH MTV Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nội là hai công ty trực tiếp bị thiệt hại do hành vi trộm cắp của hai bị cáo gây ra nên theo quy định tại điều 62 Bộ luật tố tụng hình sự phải được tham gia vụ án với tư cách là bị hại. Tòa án sơ thẩm đưa hai công ty trên tham gia vụ án với tư cách nguyên đơn dân sự là chưa chính xác. Tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm cả hai công ty đều có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, về bồi thường thiệt hại hai công ty nhất trí theo phán quyết của tòa sơ thẩm, không kháng cáo, bản án không bị kháng nghị. Vì vậy hội đồng xét xử nhất trí quan điểm của Viện kiểm sát tại tòa, chỉ cần nêu để rút kinh nghiệm với cấp sơ thẩm.

Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáoNguyễn Văn T, Phạm Minh P phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản phạm pháp quả tang, biên bản thu giữ vật chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, tòa án nhân dân huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội đã xét xử các bị cáo Phạm Minh P và Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 điều 173Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T hội đồng xét xử thấy rằng:

Tòa án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và phạm tội nhiều lần theo các điểm s khoản 1 điều 51, điểm g khoản 1 điều 52 Bộ luật hình sự. Đối với tình tiết giảm nhẹ theo điểm i khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự, hội đồng xét xử nhất trí với quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, do tòa án cấp sơ thẩm áp dụng không chính xác nên cần phải sửa.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T đã tự nguyện nộp khoản tiền bồi thường theo quyết định của bản án sơ thẩm, xuất trình tài liệu thể hiện gia đình bị cáo có công với cách mạng, bác ruột là liệt sỹ và bà nội là mẹ Việt nam anh hùng, đây là tình tiết giảm nhẹ mới cần áp dụng thêm cho bị cáo theo điểm b khoản 1 khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự.

Trong vụ án này sau khi bị bắt quả tang, các bị cáo Phạm Minh P và Nguyễn Văn T đã tự khai báo hai hành vi phạm tội trước đó, vì vậy cần áp dụng cho cả hai bị cáo tình tiết giảm nhẹ tự thú theo điểm r khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên đối với bị cáo Phạm Minh P không có kháng cáo, kháng nghị, mức hình phạt tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp vì vậy để giữ ổn định bản án không cần thiết phải sửa phần quyết định đối với bị cáo P mà chỉ áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ này đối với bị cáo T.

Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn Tmặc dù có vai trò rủ P đi trộm cắp tuy nhiên việc trộm cắp của các bị cáo là đồng phạm giản đơn, Nguyễn Văn T có nhiều tình tiết giảm nhẹ tại sơ thẩm và phúc thẩm, khi phạm tội còn trong độ tuổi vị thành niên, có địa chỉ rõ ràng, gia đình cam đoan quản lý giáo dục bị cáo nên không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, có căn cứ để áp dụng điều 65 Bộ luật hình sự cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng cải tạo và giáo dục bị cáo. Vì vậy chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, sửa bản án hình sự sơ thẩm của tòa án nhân dân huyện Quốc Oai, giữ nguyên hình phạt nhưng cho bị cáo được hưởng án treo.

Số tiền bị cáo phải bồi thường choCông ty TNHH MTV Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nội theo quyết định của bản án sơ thẩm là 7.080.000 đồng. Xác nhận bị cáo đã nộp 6.385.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội theo biên lai thu tiền số 0009549 ngày 27/2/2019, còn phải bồi thường 695.000 đồng.

Bị cáo được chấp nhận kháng cáo nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 điều 355, điểm e khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH/14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí tòa án.

- Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số06/2019/HSST ngày 26/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; điểmb,s,r khoản 1 khoản 2 điều 51; điểm g khoản 1 điều 52; điều 91; điều 101; điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Văn T 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 18(mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Giao bị cáo về ủy ban nhân dân xã Yển Khê, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Số tiền bị cáo phải bồi thường cho Công ty TNHH MTV Chiếu sáng và thiết bị đô thị Hà Nội theo quyết định của bản án sơ thẩm là 7.080.000 đồng. Xác nhận bị cáo đã nộp 6.385.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội theo biên lai thu tiền số 0009549 ngày 27/2/2019, còn phải bồi thường 695.000 đồng.

- Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

- Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

445
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 335/2019/HS-PT ngày 07/05/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:335/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;