Bản án 333/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 333/2020/HS-ST NGÀY 09/11/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 09 tháng 11 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 332/2020/TLST-HS ngày 02 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 339/2020/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 10 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 74/2020/HSST-QĐ ngày 30 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đặng Thị Thu H; sinh ngày 26 tháng 6 năm 1985, tại tỉnh Quảng Ninh Nơi cư trú: Tổ 14C, khu 5B, phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; giới tính: Nữ; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Đặng Đình T; và bà: Lê Thị T; chưa có chồng con; Tiền án, tiền sự: chưa:

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: chị Lê Thị Ngọc S; sinh năm 1998 Địa chỉ: Thôn V, xã H, huyện C, tỉnh Kiên Giang vắng mặt tại phiên tòa (có đơn xin xử án vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đặng Thị Thu H và anh Nguyễn Thế H (sinh năm 1987, trú tại: tổ 8 khu 1 phường H, thành phố H) có quan hệ tình cảm với nhau. Khoảng 00 giờ 15 phút ngày 26/6/2020 anh H cùng với các anh Phạm Thành L, Vũ Đình C đến phòng số 28 quán Karaoke KTV, thuộc tổ 6B khu 6 phường Y, thành phố H để hát. Trong khi hát, các anh có gọi 03 nhân viên nữ của quán vào phục vụ là các chị Lê Thị Ngọc S, Hồ Ngọc Như Q và Nguyễn Thị H. Đến khoảng 01 giờ cùng ngày, khi cả nhóm đang hát thì Đặng Thị Thu H vào phòng hát, nhìn thấy anh H đang ngồi hát cạnh chị S, H tức giận do anh H nói dối đi làm, nhưng lại đi hát Karaoke nên lời qua tiếng lại cãi nhau. Khi đứng cách chị S khoảng 1,5m, H dùng tay phải cầm một chiếc cốc thủy tinh trong suốt, hình trụ tròn đường kính miệng cốc khoảng 07cm, đường kính đáy cốc khoảng 05cm, cao khoảng 08cm trên bàn để ném; hậu quả đã trúng vào mặt của chị S, gây thương tích. Sau đó, H bỏ đi còn chị S được mọi người đưa đi cấp cứu. Đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày, H đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố H đầu thú.

Trong quá trình cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Đặng Thị Thu H lời khai cơ bản phù hợp với nhau và phù hợp với nội dung vụ án về thời gian, địa điểm và sự việc H đã dùng cốc thủy tinh để ném, làm cho chị Lê Thị Ngọc S bị thương. Bị cáo xác nhận do bực tức với anh Nguyễn Thế H nên khi nhìn thấy anh H đang hát Karaoke trong phòng hát có cả phụ nữ, bị cáo đã không kìm chế được, to tiếng và dùng cốc thủy tinh ném để cho mọi người biết mình đang rất tức giận chứ không nhằm mục đích gây thương tích cho ai. Ngay sau đó bị cáo bỏ về, ngay sau khi biết chị S bị thương do chiếc cốc mà bị cáo đã ném trúng, bị cáo đã tự nguyện ra đầu thú và tích cực khắc phục hậu quả bằng cách đưa chị S đi điều trị và chăm sóc vết thương, bồi thường thiệt hại cho chị S tổng số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng). Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Bị hại chị Lê Thị Ngọc S có lời khai cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo về thời gian, địa điểm và sự việc chị bị Đặng Thị Thu H gây thương tích phải điều trị tại bệnh viện, tổn hại 21% sức khỏe. Trong quá trình điều tra, đã bồi thường thiệt hại cho chị số tiền 200.000.000đ (Hai trăm triệu đồng). Chị S có đơn xin xử án vắng mặt, không yêu cầu gì khác về trách nhiệm dân sự và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Những người làm chứng chị Hồ Ngọc Như Q, chị Nguyễn Thị H, chị Huỳnh Thu Cẩm V, anh Phạm Thành L, anh Vũ Đình C, anh Nguyễn Thế H khai cơ bản phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại về thời gian, địa điểm và sự việc Đặng Thị Thu H dùng cốc thủy tinh ném gây thương tích cho chị Lê Thị Ngọc S.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 404 ngày 29/7/2020 của Trung tâm pháp y Sở y tế tỉnh Quảng Ninh, kết luận: chị Lê Thị Ngọc S bị 06 sẹo vết thương, bờ mép sắc gọn ở trán, cung lông mày, mi trên mắt phải, tháp mũi; xây sát gò má phải, hiện để lại vết biến đối rối loạn sắc tố da; rách củng mạc mắt đã được khâu phục hồi, hiện tại thị lực mắt phải 7/10, mắt 9/10. Xuất huyết kết mạc, loạn thị. Giác mạc trong tiền phòng sâu sạch, thủy tinh thể trong cân, võng mạc không phù, không xuất huyết, dịch kính trong, không bong võng mạc. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 21%, các tổn thương do vật tày có cạnh sắc tác động trực tiếp gây nên.

Tại bản cáo trạng số 299/CT-VKSHL ngày 28/9/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo Đặng Thị Thu H về tội "Cố ý gây thương tích" theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự, thuộc trường hợp quy định tại điểm a, i khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự (dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ).

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H có quan điểm: sau khi xem xét các tài liệu chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa và lời khai của bị cáo, đã xác định bị cáo thực hiện hành vi gây thương tích cho bị hại là do bột phát trong lúc nóng giận, thiếu kìm chế và không có mục đích từ trước. Viện kiểm sát nhân dân thành phố H rút một phần quyết định truy tố bị cáo Đặng Thị Thu H theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm i khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự (có tính chất côn đồ). Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự, thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự (dùng hung khí nguy hiểm) và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm đ khoản 2 điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 điều 51, khoản 1,2,5 điều 65 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo với mức hình phạt từ: 24 đến 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 48 đến 60 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại 200.000.000đ, bị hại không có yêu cầu đề nghị gì khác nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố đối với bị cáo, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện theo đúng trình tự quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại không có khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan và người tiến hành tố tụng.

[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại chị Lê Thị Ngọc S, anh Nguyễn Thế H và những người làm chứng là chị Hồ Ngọc Như Q, chị Nguyễn Thị H, chị Huỳnh Thu Cẩm V, anh Phạm Thành L, anh Vũ Đình C.

Kết quả khám nghiệm hiện trường xác định: hiện trường nơi xảy ra vụ việc tại phòng 28, tầng 2 quán KTV H View Karaoke, thuộc tổ 6B khu 6 phường Y, thành phố H. Bên trong phòng, dọc theo tường phía Đông Nam, Tây Nam và Tây Bắc có kê các dãy ghế bọc da màu đen và 03 bàn khung kim loại, mặt kính. Vị trí Đặng Thị Thu H dùng cốc ném chị S được xác định ở trong phòng hát, cách tường phía Tây Nam 1,7m; cách tường phía Đông Nam 1,8m. Vị trí H lấy cốc được xác định trên mặt bàn kê cách tường phía Tây Nam 1,15m; cách tường phía Đông Nam 01m, bàn cao 0,81m. Vị trí chị S ngồi khi bị H dùng cốc ném được xác định ở trên ghế tại góc phía Nam của phòng.

Lời khai của bị cáo và bị hại còn phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản vụ việc, biên bản khám nghiệm hiện trường, kết luận giám định và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, căn cứ vào các tài liệu điều tra và lời khai của bị cáo đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy lời khai của bị cáo đã phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 01 giờ ngày 26/6/2020, tại phòng 28, quán Karaoke KTV, thuộc tổ 6B khu 6 phường Y, thành phố H, do bực tức vì anh Nguyễn Thế H ngồi hát Karaoke cùng với chị Lê Thị Ngọc S, bị cáo Đặng Thị Thu H đã dùng một chiếc cốc thủy tinh trong suốt, hình trụ tròn, đường kính miệng cốc khoảng 07cm, đường kính đáy cốc khoảng 05cm, cao khoảng 08cm để ném, hậu quả đã trúng vào vùng mặt bên phải của chị S gây thương tích, tổn hại 21% (Hai mươi mốt phần trăm) sức khỏe.

Hành vi nêu trên của Đặng Thị Thu H đã phạm tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự, thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự (dùng hung khí nguy hiểm).

Điều 134 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Dùng hung khí nguy hiểm;...

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm: ...

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 điều này”.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H đã truy tố bị cáo theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự (thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 điều 134 Bộ luật hình sự) là đúng quy định của pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người, làm mất trật tự trị an địa phương. Bị cáo là phụ nữ nhưng khi có sự bất đồng với người khác đã không có sự kìm chế để tìm biện pháp tích cực để giải quyết mâu thuẫn mà lại có hành động dùng cốc thủy tinh ném để thỏa mãn sự nóng giận của mình. Hậu quả đã làm cho chị S bị thương tích tổn hại 21% sức khỏe. Hành vi của bị cáo đã thể hiện việc coi thường sức khỏe, danh dự của người khác. Do vậy cần thiết phải xử lý nghiêm để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo không có tình tiết tăng nặng và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện ra đầu thú và tích cực khắc phục hậu quả, đã bồi thường thiệt hại; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt, bố bị cáo được Nhà nước tặng thưởng huân, huy chương nên bị cáo được áp dụng quy định tại điểm b,s khoản 1, khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt.

Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điều 51 Bộ luật hình sự. Do vậy không cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo, để có điều kiện lao động, cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự: bị cáo đã bồi thường cho bị hại số tiền 200.000.000đ, bị hại không đề nghị và yêu cầu gì khác nên không đề cập giải quyết.

[6] Về vật chứng của vụ án: chiếc cốc thủy tinh bị cáo dùng để ném đã vỡ, cơ quan điều tra không thu hồi nên không xét đến.

[7] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đặng Thị Thu H đã phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 điều 134; điểm b,s khoản 1, khoản 2 điều 51; khoản 1,2,5 điều 65 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đặng Thị Thu H 24 (Hai mươi bốn) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 (Bốn mươi tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đặng Thị Thu H cho Ủy ban nhân dân phường Q, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân phường Q để giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ điểm d khoản 1 điều 125 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Hủy bỏ lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 137/2020/HSST-LCĐKNCT ngày 09/10/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Quảng Ninh đối với bị cáo Đặng Thị Thu H kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Căn cứ điều 331; điều 333; khoản 2 điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

280
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 333/2020/HS-ST ngày 09/11/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:333/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;