Bản án 332/2018/HSST ngày 17/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN TP THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 332/2018/HSST NGÀY 17/09/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 9 năm 2018, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên mở phiên tòa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 284/2018/ HSST ngày 05 tháng 7 năm 2018, theo Quyết định đua vụ án ra xét xử số 297/2018/QĐXXST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2018, đối với bị cáo:

Nguyễn Đức S, sinh ngày 01/01/1968

HKTT: Tổ dân phố C, phường B, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ văn hóa : 7/10; Nghề nghiệp: làm ruộng. Con ông: Nguyễn Đức L, đã chết; con bà Vũ Thị M, sinh năm 1938, gia đình có 09 anh chị em, bị cáo là con thứ sáu trong gia đình; có vợ: Vũ Thị T, sinh năm 1970; có 02 con, lớn sinh năm 1989, nhỏ sinh năm 1991; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/5/2018 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Nguyễn Đức H, sinh năm 1991,

HKTT: Tổ dân phố C, phường B, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên, (Vắng mặt).

*Người chứng kiến: Ông Phạm Đình T, sinh năm 1953

HKTT: Tổ R, phường T, thành phố TH, tỉnh Thái Nguyên (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 08 giờ 45 phút ngày 16/5/2018, tổ công tác Công an phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ K của phường phát hiện 01 người đàn ông điều khiển xe mô tô kiểu xe Wave màu đỏ, BKS: 20HX - 93XX có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiếp cận, yêu cầu kiểm tra. Người đàn ông khai tên Nguyễn Đức S (sinh năm 1968, trú tại tổ dân phố C, phường B, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên). Qua kiểm tra phát hiện tại lòng bàn tay trái của Sáu có 01 gói giấy bạc màu vàng, bên trong chứa chất bột màu trắng (trọng lượng 0,322 gam) S khai đây là ma túy Heroine của S, mua về để sử dụng cho bản thân. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với S và thu giữ, niêm phong vật chứng theo quy định.

Tại bản Kết luận giám định số 674/KL-PC54 ngày 22/5/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng thu giữ của Nguyễn Đức S là ma túy, loại Heroine có khối lượng 0,322 gam.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Đức S khai nhận: Khoảng 08 giờ ngày 16/5/2018, Sáu điều khiển xe mô tô kiểu xe Wave màu đỏ, BKS: 20H6 - 93xx do S mượn của con trai là anh Nguyễn Đức H (sinh năm 1991, trú tại tổ dân phố C, phường B, thành phố S, tỉnh Thái Nguyên) từ nhà đi đến khu vực tổ K, phường T, thành phố TH để tìm mua ma túy sử dụng cho bản thân. Tại đây, S gặp và mua của 01 nam thanh niên không quen biết 100.000 đồng tiền Heroine được được gói bằng giấy bạc màu vàng. Mua xong, S cầm gói ma túy Heroine trong lòng bàn tay trái và chuẩn bị quay về nhà để sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Trung Thành phát hiện, bắt quả tang như đã nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 289/CT-VKSTPTN ngày 05/7/2018, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Đức S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức S khai nhận rõ hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và như bản cáo trạng đã mô tả.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày lời luận tội, đề nghị Hội đông xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức S phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt Nguyễn Đức S từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

- Về vật chứng: xử lý theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu,tiêu hủy 01 bì niêm phong ký hiệu S1.

- Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Phần tranh luận: Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, tại phần lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho hưởng mức án thấp nhất.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đông xét xử nhận định như sau:

Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, lời khai của người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: Hồi 08 giờ 45 phút ngày 16/5/2018, tại khu vực tổ K, phường T, thành phố TH, Nguyễn Đức S đang có hành vi tàng trữ 0,322 gam Heroine để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Trung Thành, thành phố Thái Nguyên phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Do đó, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Đức S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS là có căn cứ.

Điều 249 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy... thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

c) Heroine...có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam”

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ xâm phạm đến các quy định của nhà nước về quản lý và sử dụng các chất ma túy, ma túy còn là hiểm họa cho xã hội, phát sinh các tệ nạn xã hội, làm khánh kiệt về kinh tế, suy kiệt giống nòi, do đó Đảng và Nhà nước ta đã kiên quyết bài trừ tệ nạn này ra khỏi xã hội, bị cáo nhận thức rõ về điều đó nhưng vẫn phạm tội, làm gia tăng tệ nạn ma túy ở địa phương. Hành vi của bị cáo phải bị xử lý nghiêm khắc bằng pháp luật hình sự để giáo dục riêng và ngăn ngừa tội phạm chung.

Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thấy: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS.

Bị cáo không có tài sản riêng, không có việc làm ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

Vật chứng vụ án: 01 bì niêm phong ký hiệu S1 cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 xe mô tô kiểu xe Wave màu đỏ, BKS: 20HX - 93XX hiện chưa xác định được chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên tách ra làm rõ, xử lý sau.

Bị cáo phải chịu án hình sự sơ thẩm, bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Mức án vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị là có căn cứ nên được HĐXX chấp nhận.

Về nguồn gốc số Heroine, Nguyễn Đức S khai mua của một người đàn ông không quen biết. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 BLHS xử phạt: Nguyễn Đức S 18 (mười tám) tháng tù giam về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 16/5/2018.

Căn cứ vào Điều 329 BLTTHS Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

Không áp dụng hình phạt bổ sung tại khoản 5 Điều 249 BLHS đối với bị cáo.

2. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bì niêm phong ký hiệu S1 (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 298 ngày 04/7/2018 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).

3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách nhà nước.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 332/2018/HSST ngày 17/09/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:332/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;