Bản án 33/2024/HS-ST về tội vi phạm quy định khai thác tài nguyên

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 33/2024/HS-ST NGÀY 15/03/2024 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH KHAI THÁC TÀI NGUYÊN

Ngày 15 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 32/2024/TLST - HS ngày 05 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2024/QĐXXST - HS ngày 19 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Tẩn Chỉn H; Sinh năm 1982 tại tỉnh Lai Châu; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Bản N2, xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu; Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hiện đã bị đình chỉ sinh hoạt đảng; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 05/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Tẩn Sài X (đã chết) và bà Phàn San M (đã chết); Vợ: Tẩn Tả M (đã chết); Con: Có 03 con, con lớn nhất sinh năm 2001, con nhỏ nhất sinh năm 2006; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 06/9/2022, bị cáo bị Công an huyện P, tỉnh Lai Châu xử phạt 20.000.000 đồng về hành vi khai thác cát, sỏi lòng sông, suối, hồ mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, hiện chưa được xóa tiền sự. Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 13/9/2023 cho đến nay (Có mặt).

- Người làm chứng: Ông Tẩn Lao T, sinh năm 1993 - Trú tại: bản N2, xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 30/8/2022, bị cáo Tẩn Chỉn H thực hiện hành vi khai thác cát, sỏi lòng sông, suối, hồ mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nên đã bị Công an huyện P, tỉnh Lai Châu xử phạt vi phạm hành chính với mức phạt 20.000.000 đồng theo quyết định số 70/QĐ- XPHC ngày 06/9/2022, hiện chưa được xóa tiền sự. Đến tháng 8/2023, Tẩn Chỉn H phát hiện thấy khu vực suối T thuộc bản N2, xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu tích tụ nhiều cát, sỏi, mặc dù không có giấy phép khai thác cát của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng H đã chuẩn bị công cụ, phương tiện gồm: 01 đầu phát nhãn hiệu DONFONG loại 185 kg, 01 máy bơm không có nhãn hiệu được hàn gia công tự chế và 03 đoạn ống nhựa màu đen vận chuyển đến bờ suối T thực hiện hành vi khai thác cát từ ngày 20/8/2023 đến ngày 23/8/2023 bằng hình thức nối các đoạn ống nhựa cắm vào lòng suối rồi dùng máy bơm hút cát từ lòng suối tập kết lên bờ. Đến ngày 29/8/2023, Tẩn Chỉn H bị Công an huyện P, tỉnh Lai Châu phát hiện, lập biên bản sự việc và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Kết quả kiểm kê, đo đạc xác định khối lượng cát Tẩn Chỉn H khai thác trái phép là 154m3.

Tại kết luận giám định tư pháp về vật liệu xây dựng số 115/KL-TTGĐ ngày 14/11/2023 của Trung tâm giám định chất lượng xây dựng thuộc Sở X tỉnh Lai Châu kết luận: Mẫu vật gửi giám định là cát mịn, cát mịn được sử dụng chế tạo bê tông và vữa.

Tại kết luận định giá tài sản số 40/KL-HĐĐGTS ngày 23/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản thuộc Ủy ban nhân dân huyện P, tỉnh Lai Châu kết luận: 154m3 cát Tẩn Chỉn H khai thác trái phép có giá trị 30.800.000 đồng.

Kết quả làm việc với Sở TN tỉnh Lai Châu xác định: Tẩn Chỉn H không được cơ quan có thẩm quyền cấp phép khai thác cát tại khu vực suối T thuộc bản N2, xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu.

Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Tẩn Chỉn H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Về các vấn đề khác của vụ án: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Tẩn Chỉn H đều thừa nhận 154m3 cát mà Cơ quan điều tra phát hiện là do bị cáo khai thác trái phép mà có. 01 đầu phát nhãn hiệu DONFONG, loại 185kg; 01 máy bơm không có nhãn hiệu được hàn gia công tự chế; 03 đoạn ống nhựa màu đen là của bị cáo dùng để hút cát trái phép.

Người làm chứng là ông Tẩn Lao T trong quá trình điều tra trình bày: Khoảng cuối tháng 8/2023, Tẩn Chỉn H có mang chiếc máy hút cát gửi ở lán nhà ông nhưng sau đó Công an đã thu giữ, ông không tham gia với bị cáo H về việc khai thác cát và không biết H khai thác cát từ thời gian nào.

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKSLC-P1 ngày 05/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu đã truy tố bị cáo Tẩn Chỉn H về tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên” theo điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Tẩn Chỉn H phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”.

Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 227, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Tẩn Chỉn H từ 09 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng đến 30 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (15/3/2024). Giao bị cáo Tẩn Chỉn H cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Áp dụng khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự: Miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 đầu phát nhãn hiệu DONFONG, loại 185kg; 01 máy bơm không có nhãn hiệu được hàn gia công tự chế; 154m3 cát; tịch thu tiêu hủy 03 đoạn ống nhựa màu đen.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về các quyết định nêu trên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Phong Thổ, Công an tỉnh Lai Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Phong Thổ, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lai Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Bị cáo Tẩn Chỉn H có 01 tiền sự về hành vi khai thác cát, sỏi lòng sông, suối, hồ mà không có giấy phép khai thác khoáng sản của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhưng trong khoảng thời gian từ ngày 20/8/2023 đến ngày 23/8/2023, tại khu vực suối T thuộc bản N2, xã V, huyện P tỉnh Lai Châu, bị cáo Tẩn Chỉn H lại tiếp tục thực hiện hành vi khai thác cát mà không có giấy phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Đến ngày 29/8/2023, bị cáo Tẩn Chỉn H bị Công an huyện P, tỉnh Lai Châu phát hiện và thu giữ 154 m3 cát mịn được sử dụng chế tạo bê tông và vữa, trị giá 30.800.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế và các quy định của Nhà nước về khai thác tài nguyên. Bị cáo ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tư lợi cá nhân nên vẫn cố ý thực hiện. Bị cáo là người có đủ năng lực pháp luật để chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội mà mình đã gây ra. Do đó, hành vi nêu trên của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên" theo điểm đ khoản 1 Điều 227 Bộ luật hình sự.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo được Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu tặng Giấy khen năm 2012, 2016, 2019, 2020, Ban chấp hành Đảng bộ xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu tặng Giấy khen năm 2016 và bị cáo là người dân tộc thiểu số. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Trên cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo còn khó khăn, vợ bị cáo đã chết và có 01 con đang là học sinh, bị cáo phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên có thể cho bị cáo tự cải tạo tại địa phương và ấn định thời gian thử thách để bị cáo thấy được tính nhân đạo của Nhà nước ta mà cố gắng cải tạo thành công dân có ích cho xã hội.

Do đó quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai và đúng quy định của pháp luật.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 3 Điều 227 Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng”. Xét điều kiện, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo còn khó khăn, nghề nghiệp làm ruộng nên cần miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án: 01 đầu phát nhãn hiệu DONFONG, loại 185kg; 01 máy bơm không có nhãn hiệu được hàn gia công tự chế là của bị cáo Tẩn Chỉn H dùng làm công cụ, phương tiện thực hiện khai thác cát trái phép nên cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 154 m3 cát do bị cáo Tẩn Chỉn H khai thác trái phép mà có cần tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước theo điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Đối với 03 đoạn ống nhựa màu đen là của bị cáo Tẩn Chỉn H dùng làm công cụ, phương tiện thực hiện khai thác cát trái phép, xét không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo Tẩn Chỉn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[7]. Kiến nghị các cấp chính quyền cần tăng cường công tác quản lý tài nguyên để tránh xảy ra vi phạm pháp luật bị xử lý về hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 227, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65, điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

1. Tuyên bố bị cáo Tẩn Chỉn H phạm tội "Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên".

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Tẩn Chỉn H 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (15/3/2024). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp bị cáo Tẩn Chỉn H thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về vật chứng vụ án:

- Tịch thu hóa giá sung quỹ Nhà nước: 01 đầu phát nhãn hiệu DONFONG, loại 185kg; 01 máy bơm không có nhãn hiệu được hàn gia công tự chế; 154m3 cát.

- Tịch thu tiêu hủy: 03 đoạn ống nhựa màu đen.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an tỉnh Lai Châu và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Lai Châu vào hồi 15 giờ 15 phút ngày 05/01/2024; Biên bản làm việc về nội dung bàn giao vật chứng liên quan đến vụ việc vi phạm khai thác tài nguyên vào hồi 16 giờ 00 phút ngày 31/8/2023 tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện P, tỉnh Lai Châu).

4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

251
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2024/HS-ST về tội vi phạm quy định khai thác tài nguyên

Số hiệu:33/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;