Bản án 33/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 33/2024/HS-ST NGÀY 05/03/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 03 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm – Phòng xét xử Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, điểm cầu thành phần – Phòng hỏi cung số 1, Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xét xử sơ thẩm công khai trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 17/2024/HSST ngày 26 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2024/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T - sinh ngày 31 tháng 5 năm 1968 tại huyện N, tỉnh Cao Bằng; Nơi cư trú: tổ F, phường Đ, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 10/10; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (đã chết) và bà Ngô Thị Đ - sinh năm 1941; có vợ là Hoàng Thị H - sinh năm 1970 (đã ly hôn) và 02 con (là con riêng của vợ) con lớn sinh năm 1992 và con nhỏ sinh năm 1995; tiền án, tiền sự: không.

Đặc điểm nhân thân:

- Năm 2002 bị Tòa án nhân dân thị xã Cao Bằng (nay là thành phố C), tỉnh Cao Bằng xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản.

- Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2023, hiện đang giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Hoàng Thị H1 - sinh năm 1970; trú tại: tổ F, phường Đ, thành phố C, tỉnh Cao Bằng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 10 giờ 30 phút ngày 25/10/2023 tổ công tác Đội cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C đang làm nhiệm vụ tại khu vực tổ A, phường H, thành phố C thì phát hiện Nguyễn Văn T, sinh năm 1968 (trú tại: tổ F, phường Đ, thành phố C, tỉnh Cao Bằng có biểu hiện nghi vấn phạm tội về ma túy nên tiến hành kiểm tra, phát hiện, thu giữ 01 (Một) gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng và 01 (một) xe mô tô. Nguyễn Văn T khai nhận số chất bột màu trắng là ma túy của T vừa mua với một người đàn ông không quen biết tại khu vực tổ A, phường H, thành phố C với giá 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng).

Cùng ngày, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố C đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng vật chứng thu giữ của Nguyễn Văn T có tổng khối lượng là 0,11g (Không phẩy một một gam).

Bản kết luận giám định số 561/KL-KTHS ngày 01/11/2023 của Phòng K Công an tỉnh C kết luận: mẫu chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine (Heroin).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa Nguyễn Văn T khai nhận: khoảng 10 giờ ngày 25/10/2023 T một mình điều khiển xe mô tô mượn của Hoàng Thị H1 (sinh năm 1970; trú tại: tổ F, phường Đ, thành phố C) đi từ nhà tại tổ F, phường Đ, thành phố C đến khu vực bờ kè tại tổ A, phường H, thành phố C, tỉnh Cao Bằng, T gặp một người đàn ông lạ mặt trông giống người nghiện nên hỏi mua 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) H2, người đàn ông nhận tiền rồi đưa cho T 01 (Một) gói giấy bạc màu trắng bên trong có chứa Heroine. Sau khi mua được ma túy, T đi tìm nơi sử dụng, khi đi đến khu vực chợ xanh thuộc tổ A, phường H, thành phố C thì bị phát hiện, bắt quả tang.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Hoàng Thị H1 khai: bà đã ly hôn với bị cáo từ năm 2022 nhưng vẫn sống chung vì chưa phân chia xong tài sản, chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11B1 – 348xx là của bà mua vào khoảng năm 2019 với giá hơn 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để làm phương tiện đi lại. Ngày 25/10/2023 bị cáo tự ý sử dụng xe đi đâu bà không biết nên đề nghị được trả lại chiếc xe.

Bản cáo trạng số 27/CT-VKSTP ngày 26/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo khai mục đích mượn xe của Hoàng Thị H1 đi thăm mẹ đẻ, trên đường về gặp một người đàn ông lạ mặt trông giống người nghiện nên mới hỏi mua ma túy.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và trình bày quan điểm về nguyên nhân phạm tội, hướng giải quyết vụ án như sau: Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và nhận thức rõ ma túy là vật cấm tàng trữ, lưu hành xong vì nghiện ma túy bị cáo đã cố ý cất giấu ma túy trong người để sử dụng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội nên cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật. Bị cáo là người có nhân thân xấu, tuy nhiên quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo nên đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng của vụ án: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy vật chứng là ma túy và trả lại xe mô tô cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án.

Bị cáo nhất trí với kết luận của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng về tội danh, hành vi phạm tội, mức hình phạt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án nhất trí với quan điểm xử lý vật chứng nên không có ý kiến tranh luận.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C, tỉnh Cao Bằng; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn T phù hợp với các tài liệu, chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Cụ thể như: biên bản bắt người phạm tội quả tang do Đội cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - ma túy Công an thành phố C lập hồi 11 giờ 00 phút ngày 25/10/2023 và vật chứng thu giữ.

Qua nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử nhận định có đủ căn cứ chứng minh vào hồi 10 giờ 30 phút ngày 25/10/2023 tại khu vực tổ A, phường H, thành phố C, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố C bắt quả tang Nguyễn Văn T đang tàng trữ 0,11g (Không phẩy một một gam) Heroine để sử dụng cho bản thân.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về ma túy. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và biết rõ tác hại của ma túy nhưng do xem thường pháp luật và để có ma túy sử dụng nên đã thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định: “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a, ...

c, H2, C, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

...

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

[3]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tặng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đi ngược lại chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong cuộc đấu tranh đẩy lùi và bài trừ tệ nạn ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội nên cần xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác, đồng thời phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm ma túy ở địa phương.

Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, nhiều lần bị kết án, mặc dù đã chấp hành xong nhưng qua đó đã thể hiện thái độ chấp hành pháp luật của bị cáo.

Tình tiết giảm nhẹ: trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng: không có.

[4]. Hình phạt chính: Căn cứ hành vi phạm tội, nhân thân cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng cải tạo, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[6]. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xét thấy cần tịch thu tiêu hủy vật chứng là ma túy vì là vật bị cấm tàng trữ, lưu hành.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 11B1 - 348xx là tài sản của bà Hoàng Thị H1 mua trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, việc bị cáo sử dụng xe đi đâu bà H1 không biết và khi bị cáo sử dụng xe từ nhà đi cũng không nhằm mục đích đi mua ma túy. Do vậy, cần trả lại chiếc xe cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là bà Hoàng Thị H1.

[7]. Các nhận định khác:

Đối với nguồn gốc số ma túy, Nguyễn Văn T khai mua với một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu nên không có căn cứ kiến nghị mở rộng vụ án.

[8]. Về nghĩa vụ chịu án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng tại phiên tòa về tội danh, hình phạt và quan điểm xử lý vật chứng là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và hoàn cảnh kinh tế của bị cáo, nên cần được chấp nhận.

Xét đề nghị của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là phù hợp với quy định của pháp luật nên cần được chấp nhận.

Xét đề nghị xin được hưởng mức hình phạt nhẹ nhất của bị cáo là thể hiện sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, nên cần được xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và mức hình phạt:

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt Nguyễn Văn T 16 (Mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 25/10/2023.

2. Về xử lý vật chứng:

Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) phong bì niêm phong, mặt trước ghi: “Số 561/KL- KTHS. Hoàn lại mẫu vụ Nguyễn Văn T - Tàng trữ trái phép chất ma túy” (Kèm theo Kết luận giám định số 561/KL-KTHS ngày 01/11/2023 của Phòng K Công an tỉnh C).

- Trả cho bà Hoàng Thị H1 (địa chỉ: tổ F, phường Đ, thành phố C, tỉnh Cao Bằng) 01 (Một) xe mô tô có chữ Vision, màu đỏ, biển kiểm soát 11B1 - 348xx, số máy: JF66E0579035, số khung: RLHJF5817GY840124, xe cũ đã qua sử dụng. Xe có số khung số máy trùng khớp với phiếu trả lời xác minh xe ngày 06/11/2023 của Công an thành phố C cung cấp (có 01 chìa khóa xe kèm theo).

Xác nhận toàn bộ các vật chứng nêu trên đã được chuyển giao cho Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng theo biên bản giao, nhận vật chứng số 55 ngày 31 tháng 01 năm 2024.

3. Về án phí:

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) nộp ngân sách Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án hình sự sơ thẩm; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;