Bản án 33/2023/HS-ST về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KT

BẢN ÁN 33/2023/HS-ST NGÀY 04/07/2023 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 04 tháng 7 năm 2023, tại Hội trường nhà văn hóa xã Diên Bình, huyện Đ T. Tòa án nhân dân tỉnh K T đưa ra xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2023/TLST-HS ngày 02 tháng 6 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 28/2023/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:

Mai Tấn T; tên gọi khác: Không; sinh ngày: 10/10/1963; Nơi sinh: tỉnh K T; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Diên Bình, huyện Đ T, tỉnh K T; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Mai H, sinh năm: 1933 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1936 (đã chết); Bị cáo có vợ là: Lê Thị M(đã ly hôn) và có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1985, nhỏ nhất sinh năm 1991.

Tiền án: Bị cáo có 01 tiền án.

Ngày 14/02/2012 bị Tòa án nhân huyện Đ T xử phạt 15 tháng tù về tội “Xúi dục người khác tự sát” theo Bản án số 07/2012/HSST ngày 14/02/2012. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính. Theo biên lai ngày 23/5/2023 của Chi cục thi hành án huyện Đ T, tỉnh K T, bị cáo mới nộp số tiền 200.000đ tiền án phí, nên chưa được xóa án tích.

Tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 03/8/1999 bị Tòa án nhân dân tỉnh K T xử phạt 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 33/HSST ngày 03/8/1999, đến ngày 30/4/2000 chấp hành xong, đã được xóa án tích.

Ngày 17/3/2011 bị Ủy ban nhân dân xã Diên Bình, huyện Đ T, tỉnh K T xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/01/2023 đến nay (Có mặt).

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Minh T – Luật sư thuộc Văn phòng Luật sư Minh T, Đoàn Luật sư tỉnh K T. Địa chỉ: 157 Phan Chu Trinh, thành phố K T, tỉnh K T. (Có mặt)

Bị hại: Ông Nguyễn Văn Đ, sinh ngày: 05/12/1973 (đã chết)

Người đại diện hợp pháp của bị hại: Anh Trần Đức H, sinh năm: 1997 và anh Nguyễn Văn Q, sinh năm: 2001. Cùng trú tại: Thôn 2, xã Diên Bình, huyện Đ T, tỉnh K T.

Anh Trần Đức H1 là người Đ diện theo ủy quyền của anh Nguyễn Văn Q.

(Theo Biên bản họp gia đình ngày 18/5/2023) (Có mặt)

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Mai Minh T, sinh năm: 1985;

Nơi cư trú: Thôn 2, xã Diên Bình, huyện Đ T, tỉnh K T (Có mặt)

Người làm chứng:

+ Anh Nguyễn Văn H2, sinh năm: 1982; Nơi cư trú: Số 11 Tô Vĩnh Diện, phường Trường Chinh, thành phố K T, tỉnh K T. (Có mặt)

+ Anh Trần Quốc H3, sinh năm: 1977; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Diên Bình, huyện Đ T, tỉnh K T. (Vắng mặt)

+ Anh Lê Thanh T1, sinh năm: 1996; Nơi cư trú: Thôn 2, xã Diên Bình, huyện Đ T, tỉnh K T. (Có mặt) 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tối ngày 23/01/2023 (Ngày mùng 2 tết Nguyên đán năm Quý Mão), anh Nguyễn Văn Đ đến nhà của Mai Tấn T tại thôn 2, xã Diên Bình, huyện Đ T, tỉnh K T chơi và chúc tết. Tại đây, T mời Đ ở lại uống rượu và ăn cháo gà, trong quá trình ngồi uống rượu với nhau ở phòng khách thì T có nhắc tới việc vào năm 2022 Đ có nợ T số tiền 20.000 đồng (Hai mươi ngàn đồng) và yêu cầu Đ trả lại số tiền này. Vì Đ không trả tiền cho T nên hai người xảy ra mâu thuẫn cãi nhau, T nói với Đ: “Ăn hết thịt gà rồi đi về nhà đi” nhưng Đ không ăn, T tiếp tục nói và đe dọa Đ: “Mày không trả tiền tao, không ăn hết thịt gà thì mày coi chừng tao”; Đ nói lại với T là: “Đồ quỷ”. Sau đó, T và Đ đánh nhau, T dùng tay đánh làm Đ bị ngã nằm xuống nền nhà, T tiếp tục dùng tay nắm vào cổ áo kéo Đ xuống bếp rồi vật ngã Đ. Lúc này Đ nói với T là thả Đ ra, nếu Đ mà về được nhà sẽ cầm dao quay lại đâm T. T không thả Đ ra mà lấy một chiếc kéo để ở trong nhà bếp, T cầm kéo trên tay rồi tiếp tục kéo Đ quay trở lên lại phòng khách. Tại đây, T vật Đ ngã nằm ngửa xuống nền nhà, khi Đ la lên thì T dùng tay phải cầm chiếc kéo cúi xuống đâm thẳng vào vùng cổ của Đ một nhát và nói: “Mày muốn chết thì tao cho mày chết” rồi rút kéo ra thì thấy vết thương ở cổ và miệng của Đ chảy nhiều máu, T tiếp tục dùng chân phải đạp vào người làm Đ ngã xuống nằm trước cửa nhà bếp phía dưới bậc tam cấp. Lúc này, Đ nằm ngửa bên cạnh một cái bao tải bên trong có để dụng cụ sửa chữa cơ khí của anh Mai Minh T là con trai T gửi lại. T đi lại gần chỗ Đ nằm rồi lấy ra 01 (một) cái búa để trong bao tải rồi bước tới đứng dang chân hai bên hông, cúi khom người phía trên bụng Đ và nói: “Mày không về được đâu, tao đập cho mày chết luôn” sau đó tay phải cầm cán búa giơ lên cao qua đầu T rồi đập mạnh 01 (một) nhát hướng từ trên xuống trúng vào vùng trán bên phải của Đ. Thấy Đ nằm im và có máu chảy ra ở vết thương vùng mặt và trán, T nói: “Mày về được thì về tao đi ngủ”, nói xong T bỏ mặc Đ nằm ở đó và đi vào phòng để ngủ. Đến khoảng 02 giờ sáng ngày 24/01/2023, T ngủ dậy đi ra kiểm tra thì thấy Đ nằm dưới nền nhà bếp, tư thế co người, kiểm tra thấy cơ thể Đ đã cứng; biết Đ đã chết nên T mang thi thể Đ đi giấu nhằm mục đích không để người khác phát hiện ra hành vi phạm tội của T; T dùng 02 tay nắm 02 chân kéo lê thi thể của Đ từ trong nhà đưa ra gần con mương khô không có nước ở phía sau nhà T rồi đẩy thi thể của Đ xuống con mương. Sau đó, T đi vào nhà lấy 01 cái áo mưa rồi quay lại chỗ thi thể của Đ đang ở dưới con mương, dùng cái áo mưa vừa lấy để cuốn, bọc quanh thi thể Đ lại. Khi bọc thi thể của Đ xong, T dùng tay để lăn thi thể Đ đến sát vào bờ mương rồi lấy lá khô ở dưới mương phủ lên trên để che giấu. Sau đó T vào nhà dùng chổi quét các vết máu ở góc nhà trên phòng khách và bậc tam cấp rồi dùng cây lau nhà để lau các vết máu dính trên nền nhà và bậc tam cấp nhằm mục đích xóa các dấu vết máu tại hiện trường. Đến khoảng 19 giờ 00 ngày 25/01/2023, người nhà của Đ tới nhà của T tìm Đ thì T có nói là ngày mùng hai Đ có đến chúc Tết rồi T không gặp Đ nữa, đến khoảng 20 giờ cùng ngày, người nhà của Đ và những người trong thôn đi tìm thì phát hiện thi thể của Đ tại con mương khô, không có nước phía sau nhà T, nên đã báo chính quyền địa phương và Công an huyện Đ T xử lý.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 08/TT-TTPY ngày 27/01/2023 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh K T kết luận nguyên nhân chết đối với anh Nguyễn Văn Đ:

1. Dấu hiệu chính qua giám định :

- Vùng đầu, mặt: Hai mắt nhắm có dấu hiệu kính râm, miệng khép hờ, mũi - miệng có máu, hai tai không có máu. Vùng trán bên phải trên cung mày có vết thương kích thước (07x01)cm, bờ mép nham nhở. Vết thương ở mi dưới đầu ngoài mắt bên phải kích thước (1.5x0.3)cm, bờ mép nham nhở. Dập môi trên bên trái kích thước (1.5x01)cm và vết thương ở môi trên bên phải kích thước (02x0.1)cm.

Vết thương ở môi dưới bên phải kích thước (02x0.1)cm. Vết thương ở môi dưới bên phải kích thước (0.6x0.2)cm và vết thương ở môi dưới bên trái kích thước (01x0.5)cm bờ mép nham nhở, gãy răng III-1, III-2, IV-1. Sờ nắn xương sọ có tiếng lạo xạo.

- Rạch da mở rộng vết thương ở vùng trán và trần hốc mắt bên phải: Tổ chức da mô cơ bầm tụ máu, kiểm tra thấy vỡ lún xương sọ vùng trán bên phải hình chữ U ngược các cạnh từ ngoài vào trong và từ trên xuống dưới kích thước là (1.5x3.5x02)cm. Vỡ xương trần hốc mắt bên phải kích thước (05x01)cm và nhìn thấy tổ chức não, gãy ngành ngoài xương xoang bên hàm phải. Mở xương sọ vùng trán bên phải thấy vỡ nền sọ và có máu trong não.

2. Nguyên nhân chết: Chấn thương sọ não.

Tại Bản kết luận giám định về ADN số: 719/KL-KTHS ngày 28/4/2023 của Phân viện Khoa học Hình sự tại thành phố Đà Nẵng - Viện khoa học hình sự, kết luận:

sau:

- Trên búa, trên kéo và trên đôi dép có máu của Nguyễn Văn Đ - Trên áo thun không phát hiện thấy máu Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ được các vật chứng như - 01 (Một) tấm ni lông màu xanh đen; 01 (một) áo thun ngắn tay màu xanh đen; 01 (một) chổi đót; 01 (một) cây lau nhà; 01 (một) búa cán gỗ; 01 (một) kéo cán nhựa màu cam; 01 (một) đôi dép màu đen.

Bản cáo trạng số 24/CT-VKS-P2 ngày 31 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh K T truy tố bị cáo Mai Tấn T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, qua phân tích về nguyên nhân, động cơ mục đích, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, đánh giá về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của bị cáo. Đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên toàn bộ Bản cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo Mai Tấn T về tội “Giết người”. Đề nghị áp dụng điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm e, p, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo mức án tù chung thân.

- Về trách nhiệm dân sự: Người đại diện hợp pháp của bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại nên không xem xét.

- Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy vật chứng thu giữ trong vụ án là công cụ phạm tội và không còn giá trị sử dụng.

- Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử, giải quyết theo quy định của pháp luật.

Luật sư bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa có ý kiến: Thống nhất với quan điểm của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Mai Tấn T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, đồng thời áp dụng: điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm e, p, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên tại phiên tòa, bị cáo có khai trong quá trình phạm tội, bị cáo có nhắn gia đình, các con của bị cáo đã lên thăm hỏi, động viên và thắp nhang cho bị hại với số tiền là 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Đại diện hợp pháp của người bị hại cũng thừa nhận điều này do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, giảm nhẹ thêm phần hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo thống nhất như lời bào chữa của Luật sư và không tranh luận gì thêm với đại diện Viện kiểm sát.

Người đại diện hợp pháp của bị hại; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo biết việc làm của bị cáo là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận việc mình đã làm xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra tỉnh K T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh K T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, người bào chữa của bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của bị cáo cơ bản phù hợp với lời khai trước đây tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập có tại hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử một lần nữa có đủ cơ sở khẳng định:

Vào tối ngày 23/01/2023, Nguyễn Văn Đ đến nhà Mai Tấn T chơi và chúc tết. Trong lúc uống rượu tại phòng khách nhà của bị cáo, T có đòi nợ Đ số tiền 20.000 đồng, Đ không trả tiền, và nói: “Đồ quỷ” nên T bực tức, bị cáo dùng tay đánh làm Đ ngã xuống nền nhà, T tiếp tục dùng tay nắm vào cổ áo kéo Đ xuống bếp, T lấy một chiếc kéo cầm trên tay và kéo Đ quay trở lại phòng khách, vật ngã Đ, khi Đ la lên thì bị T dùng kéo đâm một nhát vào vùng cổ và nói: “Mày muốn chết thì tao cho mày chết” rồi dùng chân phải đạp Đ ngã xuống bậc tam cấp nhà bếp, T tiếp tục lấy chiếc búa và nói: “Mày không về được đâu, tao đập cho mày chết luôn” rồi dùng búa đập vào vùng trán bên phải của Đ, thấy Đ nằm im, chảy nhiều máu, T bỏ mặc và đi ngủ, đến sáng khi phát hiện Đ đã chết, sợ người khác phát hiện nên T kéo xác Đ ra mương nước cạn khô sau nhà, dùng áo mưa cuốn thi thể rồi lấy lá cây khô che phủ nhằm che giấu, tránh sự phát hiện hành vi phạm tội của bản thân. Sự việc sau đó được người nhà của bị hại phát hiện và báo cho cơ quan Công an điều tra làm rõ.

Tại phiên tòa, bị cáo khai, sau khi dùng kéo đâm vào cổ của Đ, bị cáo tiếp tục dùng chân đạp vào người, thấy Đ nằm im nên bị cáo bỏ đi ngủ, đến khoảng 2 giờ sáng thức dậy thấy ông Đ còn nằm, nên bị cáo lấy chiếc búa đập vào trán ông Đ và nói “Mày muốn chết tao đập cho mày chết luôn”. Hội đồng xét xử đã hỏi kỹ về việc thay đổi lời khai của bị cáo về tình tiết này và bị cáo khẳng định lời khai tại phiên tòa là đúng sự thật và cũng khẳng định tại cơ quan điều tra bị cáo cũng tự nguyện khai nhận về hành vi phạm tội của mình không bị đánh đập, ép cung. Mặc dù lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa có sự mâu thuẫn, nhưng không thay đổi bản chất của vụ án. Qua các tài liệu chứng cứ được thu thập khách quan và qua lời khai nhận tội của bị cáo thì ông Đ chết là do một mình bị cáo đã có hành vi dùng kéo đâm vào cổ, dùng búa đập vào trán, hậu quả làm ông Đ chết do chấn thương sọ não. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 08/TT-TTPY ngày 27/01/2023 của Trung tâm pháp y thuộc Sở y tế tỉnh K T kết luận nguyên nhân chết đối với anh Nguyễn Văn Đ: Chết do chấn thương sọ não.

Thấy rằng, Bản cáo trạng số 24/CT-VKS-P2 ngày 31 tháng 5 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh K T truy tố bị cáo Mai Tấn T về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật không oan.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo Mai Tấn T là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý trực tiếp xâm phạm đến tính mạng, đến quyền sống của con người, luôn được pháp luật bảo vệ. Khi phạm tội bị cáo có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt về việc bị cáo đòi bị hại trả số tiền 20.000đ nợ trước đó. Trong lúc nói nhau qua lại, bị cáo đã dùng tay để đánh, sử dụng kéo nhọn là hung khí nguy hiểm đâm vào cổ bị hại, không dừng lại ở đó bị cáo còn lấy búa đập vào trán của bị hại, thể hiện tính côn đồ hung hãn, bị cáo cố ý thực hiện hành vi đến cùng nhằm mục đích giết chết bị hại, hậu quả làm bị hại chết do chấn thương sọ não, chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật, xem thường tính mạng của người khác, gây mất mát, đau thương cho gia đình nạn nhân. Bị cáo đã từng hai lần phạm tội, phải cải tạo nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội, thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng. Vì thế, xét thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm khắc, mới có tác dụng răn đe, cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và mới có tác dụng giáo dục, phòng ngừa chung đối với xã hội, đồng thời đây cũng là bài học cảnh tỉnh cho mỗi người dân, trong cuộc sống cần phải tuân thủ và chấp hành tốt mọi quy định của pháp luật.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội; sau khi phạm tội, bị cáo có nhắn các con của bị cáo, bỏ số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng) để thắp nhang cho bị hại. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp, cố tình thực hiện tội phạm đến cùng.

Ngày 14/02/2012 bị TAND huyện Đ T xử phạt 15 tháng tù về tội “Xúi dục người khác tự sát” bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính, nhưng chưa chấp hành nộp án phí hình sự 200.000đ theo bản án đã tuyên. Tại biên lai ngày 23/5/2023 bị cáo mới nộp nên chưa được xóa án tích, theo hướng dẫn tại điểm 7 mục I công văn số 64/TANDTC-PC ngày 03/4/2019 của Tòa án nhân dân tối cao. Bị cáo đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý thuộc trường hợp tái phạm, Do đó, cần áp dụng các tình tiết tăng nặng quy định tại các điểm e, h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm p khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015 “Có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm trốn tránh hoặc che dấu tội phạm”. Tuy nhiên qua xem xét đánh giá, thấy rằng bị cáo không phải chịu tình tiết tặng nặng trên, nên Hội đồng xét xử không áp dụng đối với bị cáo.

[5] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, bị cáo đã từng có tiền án, tiền sự và hiện còn một tiền án chưa được xóa.

Bị Tòa án nhân dân tỉnh K T xử 02 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 33/HSST ngày 03/8/1999 đến ngày 30/4/2000 chấp hành xong, đã xóa án tích.

Ngày 14/02/2012 bị TAND huyện Đ T xử phạt 15 tháng tù về tội “xúi dục người khác tự sát” Ngày 17/3/2011 bị Ủy ban nhân dân xã Diên Bình, huyện Đ T, tỉnh K T xử phạt 1.500.000đ về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người đại diện hợp pháp của bị hại anh Trần Đức H trình bày sau khi ông Đ chết, gia đình bị cáo có đến thắp nhang, bồi thường mai táng với số tiền 10.000.000đ (Mười triệu đồng). Anh không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về số tiền 10.000.000đ, người có nghĩa vụ liên quan, là anh Mai Minh T cho rằng đây là số tiền mà bị cáo có nhắn, nhờ các con bồi thường cho gia đình ông Đ, anh không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền này.

[7] Vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra đã thu giữ gồm: 01 (Một) tấm ni lông màu xanh đen; 01 (một) áo thun ngắn tay màu xanh đen; 01 (một) chổi đót dài; 01 (một) cây lau nhà; 01 (một) búa cán gỗ; 01 (một) kéo cán nhựa màu cam;

01 (Một) đôi dép màu đen. Những vật chứng này là công cụ phạm tội và không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo là người cao tuổi nên được miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm e, h khoản 1 Điều 52; Điều 39 Bộ luật hình sự 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Mai Tấn T phạm tội “Giết người”.

Xử phạt: Bị cáo Mai Tấn T Tù Chung Thân. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo, ngày 26/01/2023.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng các Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015;

Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (Một) tấm ni lông màu xanh đen kích thước (2x1,5)m;

01 (một) áo thun ngắn tay màu xanh đen; 01 (một) chổi đót dài 86.5 cm, cán nhựa màu xanh, cán dài 71 cm, đường kính 3.1 cm; 01 (một) cây lau nhà dài 1.5 m, phần nhựa kích thước (0.36 x 0.2)m, cán sắt dài 0.65 cm, đường kính 1.8 cm, đầu cán kim loại có gắn một đoạn tre làm móc treo dài 15.6 cm; 01 (một) búa cán gỗ, đầu búa kim loại, tổng chiều dài 36.3 cm, phần đầu búa kích thước (12x4.5x4.8) cm, cán gỗ dài 31.5 cm; 01 (một) kéo cán nhựa màu cam, 02 lưỡi, 02 đầu nhọn, lưỡi kim loại dài 13 cm, phần rộng nhất 2 cm, cán dài 10.3 cm, phần rộng nhất cán 4 cm, phần nhỏ nhất 1.4 cm, phần cán nhựa được buộc dây kim loại; 01 (Một) đôi dép màu đen có họa tiết trắng có chữ ADDA, dài 25.5 cm, rộng nhất 9.8 cm.

(Vật chứng có đặc điểm, hình dạng, kích thước như trong Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 02 tháng 6 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh K T và Cục Thi hành án dân sự tỉnh K T).

Về án phí: Căn cứ các Điều 135 và 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ Điều 12, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Miễn tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331; 332; 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo; người đại diện hợp pháp của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (04/07/2023).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2023/HS-ST về tội giết người

Số hiệu:33/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;