Bản án 33/2021/HS-ST ngày 31/03/2021 về tội gá bạc và đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 33/2021/HS-ST NGÀY 31/03/2021 VỀ TỘI GÁ BẠC VÀ ĐÁNH BẠC

Ngày 31 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 21/2021/TLST- HS ngày 08 tháng 02 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2021, đối với các bị cáo:

1. HOÀNG TIẾN H, sinh năm 1985 tại Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn G, thị trấn C, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Tiến N và bà Hoàng Thị H; có vợ là Trần Thị T và 04 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 01/10/2020, hiện tại ngoại. Danh chỉ bản số 539 lập ngày 07/10/2020 tại Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Có mặt.

2. TỐNG BÁ T, sinh năm 1992 tại Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tống Bá D và bà Tống Thị H; có vợ là Nguyễn Thị Ngọc M và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 01/10/2020, hiện tại ngoại. Danh chỉ bản số 538 lập ngày 07/10/2020 tại Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Có mặt.

3. NGUYỄN DANH T, sinh năm 1982 tại Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn Q, xã T, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Danh C và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Lý Thị H và 04 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Bản án số 680/HSST ngày 01/10/2004 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 24 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 36 tháng về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và đã nộp án phí ngày 19/4/2005 (Đã xóa án tích); bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 01/10/2020, hiện tại ngoại. Danh chỉ bản số 537 lập ngày 07/10/2020 tại Công an huyện C, thành phố Hà Nội. Có mặt.

4. ĐINH THỊ T, sinh năm 1979 tại H. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Xóm B, xã M, huyện K, tỉnh H; chỗ ở hiện nay: Thôn A, xã A, huyện H, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: 4/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Công T và bà Hà Thị K; chồng: không có; con: có 01 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Bản án số 548/2012/HSPT ngày 07/5/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xử phạt 06 tháng tù về tội Đánh bạc; bị cáo chấp hành xong hình phạt ngày 30/8/2012, nộp án phí, tiền phạt ngày 04/6/2012 (Đã xóa án tích); bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 03/10/2020, hiện tại ngoại. Danh chỉ bản số 535 lập ngày 07/10/2020 tại Công an huyện C, thành phố Hà Nội. Có mặt.

5. HOÀNG THỊ H, sinh năm 1986 tại Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn G, thị trấn C, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Đăng M và bà Nguyễn Thị H; có chồng là Hoàng Đình T (đã ly hôn) và 03 con; tiền sự: không; tiền án: Bản án số 186/2016/HSST ngày 20/10/2016 của Tòa án nhân dân quận H, thành phố Hà Nội xử phạt 7.000.000 đồng về tội Đánh bạc, bị cáo nộp tiền phạt và án phí ngày 25/3/2021 (Chưa được xóa án tích); bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 03/10/2020, hiện tại ngoại. Danh chỉ bản số 534 lập ngày 07/10/2020 tại Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội. Có mặt.

6. NGUYỄN THỊ H, sinh năm 1979 tại Hà Nội. Nơi cư trú: Tổ 1, phường P, quận N, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân S và bà Dương Thị T; có chồng là Nghiêm S và 04 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 03/10/2020, hiện tại ngoại. Danh chỉ bản số 536 lập ngày 07/10/2020 tại Công an huyện C, thành phố Hà Nội. Có mặt.

7. NGUYỄN VĂN D, sinh năm 1976 tại Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn Đ, xã Đ, huyện H, thành phố H; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị T; có vợ là Trần Thị H (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 01/4/1997, Công an huyện H, tỉnh Hà Tây khởi tố bị can về tội “Cố ý gây thương tích”, sau đó được đình chỉ điều tra bị can ngày 29/4/1997; bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 01/10/2020, hiện tại ngoại. Danh chỉ bản số 541 lập ngày 07/10/2020 tại Công an huyện C, thành phố Hà Nội. Có mặt.

8. HOÀNG ĐÌNH C, sinh năm 1989 tại Hà Nội. Nơi cư trú: Thôn G, thị trấn C, huyện C, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Đình B và bà Hoàng Thị H; có vợ là Đặng Thị H và 02 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt, tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 01/10/2020, hiện tại ngoại. Danh chỉ bản số 540 lập ngày 07/10/2020 tại Công an huyện C, thành phố Hà Nội. Có mặt.

Người làm chứng: Chị Huỳnh Tú O, anh Tống Bá L, anh Hoàng Tiến Đ, anh Đinh Tiến M, anh Lê Văn D, ông Hoàng Tiến B - đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 28/9/2020, Tống Bá T, Nguyễn Danh T, Đinh Thị T, Hoàng Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C đến nhà Hoàng Tiến H chơi rồi rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh “Xóc đĩa”. Các bị cáo xin phép H cho đánh bạc tại nhà của H. H đồng ý và cắt 04 quân vị hình tròn từ quân bài chắn, lấy 01 bát men sứ, 01 đĩa men sứ đưa cho các bị cáo đánh bạc trên chiếc thảm vải tại nhà của mình để thu tiền phế. Trước khi chơi, H thu của mỗi bị cáo đánh bạc 200.000 đồng. Khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, các bị cáo bị tổ công tác Công an huyện C và Công an thị trấn C phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng trên chiếu bạc gồm 01 bát men sứ, 01 đĩa men sứ, 04 quân vị, 01 chiếc thảm vải và 14.100.000 đồng; thu giữ trong người Tống Bá T 1.400.000 đồng, Nguyễn Danh T 2.400.000 đồng, Đinh Thị T 1.200.000 đồng, Hoàng Thị H 1.300.000 đồng, Nguyễn Thị H 1.800.000 đồng và Hoàng Tiến H 1.400.000 đồng tiền phế. Tổng số tiền thu giữ là 23.600.000 đồng.

Các bị cáo khai nhận hình thức chơi “Xóc đĩa” như sau: Tống Bá Tr là người “Xóc cái”, sử dụng 04 quân vị đặt vào đĩa, dùng bát úp lại và xóc lên; quy ước phía bên tay phải Trúc là cửa chẵn, phía bên tay trái là cửa lẻ. Sau khi xóc cái, người chơi đặt tiền ở cửa. Sau khi mở bát, nếu trên đĩa có 02 quân vị hoặc cả 04 quân vị cùng một màu thì những người đặt tiền ở cửa chẵn thắng, người đặt tiền ở cửa lẻ thua; ngược lại nếu có 03 quân vị cùng một màu, 01 quân vị còn lại khác màu thì người đặt tiền ở cửa chẵn thua, người đặt tiền ở cửa lẻ thắng. Trúc thu tiền của người thua và thanh toán trả cho người thắng bằng số tiền mà họ đặt cửa; Trúc được hưởng hoặc phải chịu thua số tiền chênh lệch giữa hai cửa chẵn - lẻ.

Quá trình điều tra xác định được hành vi của các bị cáo như sau:

1. Hoàng Tiến H cắt 04 quân vị hình tròn từ quân bài chắn, lấy 01 bát men sứ, 01 đĩa men sứ đưa cho các bị cáo đánh bạc trên chiếc thảm vải tại nhà của mình để thu tiền phế. Trước khi chơi, H thu của mỗi bị cáo đánh bạc 200.000 đồng, tổng cộng thu được 1.400.000 đồng; khi bị bắt đã tự nguyện giao nộp.

2. Tống Bá T sử dụng 1.400.000 đồng để đánh bạc, nộp phế 200.000 đồng; khi bị bắt đang thắng 200.000 đồng nên có 1.400.000 đồng để trên người và tự nguyện giao nộp;

3. Nguyễn Danh T sử dụng 6.000.000 đồng để đánh bạc, nộp phế 200.000 đồng; khi bị bắt bỏ hết tiền đang cầm trên tay xuống chiếu (không rõ bao nhiêu), còn 2.400.000 đồng để trên người và tự nguyện giao nộp;

4. Đinh Thị T sử dụng 5.000.000 đồng để đánh bạc, nộp phế 200.000 đồng; khi bị bắt bỏ hết tiền đang cầm trên tay xuống chiếu (không rõ bao nhiêu), còn 1.200.000 đồng để trên người và tự nguyện giao nộp;

5. Hoàng Thị H sử dụng 4.000.000 đồng để đánh bạc, nộp phế 200.000 đồng;

khi bị bắt bỏ hết tiền đang cầm trên tay xuống chiếu (không rõ bao nhiêu), còn 1.300.000 đồng để trên người và tự nguyện giao nộp;

6. Nguyễn Thị H sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc, nộp phế 200.000 đồng; khi bị bắt đang thua 1.000.000 đồng, còn 1.800.000 đồng để trên người và tự nguyện giao nộp;

7. Nguyễn Văn D sử dụng 2.200.000 đồng để đánh bạc, nộp phế 200.000 đồng;

khi bị bắt bỏ hết tiền đang cầm trên tay xuống chiếu (không rõ bao nhiêu);

8. Hoàng Đình C sử dụng 2.000.000 đồng để đánh bạc, nộp phế 200.000 đồng;

khi bị bắt bỏ hết tiền đang cầm trên tay xuống chiếu (không rõ bao nhiêu).

Tại Cáo trạng số 21/CT-VKS-CM ngày 03/02/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội truy tố Hoàng Tiến H về tội “Gá bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; truy tố Tống Bá T, Nguyễn Danh T, Đinh Thị T, Hoàng Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng Tiến H từ 15 tháng đến 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt Hoàng Thị H từ 15 tháng đến 18 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt:

+ Nguyễn Danh T từ 09 tháng đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

+ Đinh Thị T từ 15 tháng đến 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt:

+ Tống Bá T từ 15 tháng đến 18 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 30 tháng đến 36 tháng.

+ Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C, mỗi bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng.

- Miễn hình phạt bổ sung cho tất cả các bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Đề nghị tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền các bị cáo sử dụng đánh bạc và thu lời bất chính là 23.600.000 đồng; tịch thu tiêu hủy 01 bát men sứ, 01 đĩa men sứ, 04 quân vị, 01 chiếc thảm vải đã thu giữ.

- Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Trong khoảng thời gian từ 14 giờ 30 phút đến 15 giờ 45 phút ngày 28/9/2020, Hoàng Tiến H đã chuẩn bị dụng cụ và cho các bị cáo Tống Bá T, Nguyễn Danh T, Đinh Thị T, Hoàng Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh “Xóc đĩa” tại nhà của mình ở thôn G, thị trấn C, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội để thu tiền phế. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng để đánh bạc là 23.600.000 đồng; số tiền phế Hoàng Tiến H đã thu được là 1.400.000 đồng. Trong khi các bị cáo đang đánh bạc thì bị cơ quan Công an bắt quả tang.

[2]. Hành vi nêu trên của các bị cáo là trái phép, đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Các bị cáo Tống Bá T, Nguyễn Danh T, Đinh Thị T, Hoàng Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C đánh bạc với tổng số tiền 23.600.000 đồng là phạm vào tội “Đánh bạc”; bị cáo Hoàng Tiến H sử dụng nhà ở của mình cho 07 bị cáo nêu trên đánh bạc với tổng số tiền 23.600.000 đồng để thu 1.400.000 đồng tiền phế là phạm vào tội “Gá bạc”. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội truy tố Hoàng Tiến H về tội “Gá bạc” theo điểm c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự; truy tố Tống Bá T, Nguyễn Danh T, Đinh Thị T, Hoàng Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự an toàn công cộng, gây mất ổn định tình hình trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn. Vì vậy, cần có mức hình phạt nghiêm khắc để giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4]. Đánh giá vai trò của các bị cáo: Bị cáo Hoàng Tiến H sử dụng nhà ở của mình và chuẩn bị dụng cụ cho các bị cáo khác đánh bạc nên có vai trò cao nhất trong vụ án. Bị cáo Tống Bá T là người xóc cái cho các bị cáo khác đánh bạc nên có vai trò cao nhất trong số các bị cáo phạm tội “Đánh bạc”. Các bị cáo phạm tội “Đánh bạc” còn lại có vai trò ngang nhau trong vụ án.

[5]. Đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và quyết định áp dụng hình phạt đối với các bị cáo:

- Bị cáo Hoàng Tiến H có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải, có nơi cư trú rõ ràng nên xét thấy không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội, mà cho bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo.

- Bị cáo Hoàng Thị H phạm tội khi có 01 tiền án, chưa được xóa án tích, nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “Tái phạm”, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Xét thấy cần cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Các bị cáo Nguyễn Danh T, Đinh Thị T sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thời gian xóa án tích đã lâu nên xét thấy không cần thiết phải cách ly ra khỏi xã hội, mà cho các bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo.

- Các bị cáo Tống Bá T, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C đều phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, do đó được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên cho các bị cáo được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục các bị cáo.

- Về mức hình phạt: Mức hình phạt áp dụng đối với các bị cáo sẽ tương ứng với vai trò, nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và số tiền sử dụng để đánh bạc của từng bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung: Do các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho tất cả các bị cáo.

[6]. Về vật chứng: 01 bát men sứ, 01 đĩa men sứ, 04 quân vị, 01 chiếc thảm vải là công cụ, phương tiện phạm tội, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 23.600.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc trái phép và tiền thu lời bất chính nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

[7]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[8]. Phân tích tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên thì thấy: Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hoàn toàn đúng với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 106, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Tiến H phạm tội “Gá bạc”; các bị cáo Tống Bá Trúc, Nguyễn Danh T, Đinh Thị T, Hoàng Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C phạm tội “Đánh bạc”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt: Hoàng Tiến H 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hoàng Tiến H cho Ủy ban nhân dân thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt: Hoàng Thị H 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 28/9/2020 đến ngày 03/10/2020.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt:

- Nguyễn Danh T 12 (mười hai) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Danh T cho Ủy ban nhân dân xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Đinh Thị T 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Đinh Thị T cho Ủy ban nhân dân xã Mỵ Hòa, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

* Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt:

- Tống Bá T 15 (mười lăm) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Tống Bá T cho Ủy ban nhân dân xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách - Nguyễn Thị H 10 (mười) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 20 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho Ủy ban nhân dân phường Phú Đô, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Nguyễn Văn D 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn D cho Ủy ban nhân dân xã Đông La, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

- Hoàng Đình C 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Hoàng Đình C cho Ủy ban nhân dân thị trấn Chúc Sơn, huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 23.600.000 đồng (hiện đang gửi trong tài khoản số 3949.0.1052753.00000 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội tại Kho bạc nhà nước Chương Mỹ, thành phố Hà Nội);

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 bát men sứ; 01 đĩa men sứ; 01 chiếc thảm vải; 04 quân vị hình tròn (Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/02/2021 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chương Mỹ, thành phố Hà Nội).

4. Về án phí: Buộc các bị cáo Hoàng Tiến H, Tống Bá T, Nguyễn Danh T, Đinh Thị T, Hoàng Thị H, Nguyễn Thị H, Nguyễn Văn D, Hoàng Đình C mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

339
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 33/2021/HS-ST ngày 31/03/2021 về tội gá bạc và đánh bạc

Số hiệu:33/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;