Bản án 33/2021/HSST ngày 27/01/2021 về tội đánh bạc

  TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 33/2021/HSST NGÀY 27/01/2021 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Trong các ngày 26, 27/01/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 23/2020/HSST ngày 18/12/ 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2021/QĐXXST-HS ngày 06/01/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 23/2021/QĐXXST-HS ngày /2021 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Quàng Văn Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1980 tại xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản T, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông : Quàng Văn N sinh năm: 1958 và bà Quàng Thị T, sinh năm: 1958; Bị cáo có vợ: Lường Thị C, sinh năm: 1981 và 03 con, lớn nhất 22 tuổi và nhỏ nhất 18 tuổi; Tiền sự : Không; Tiền án : Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn (Tạm giữ) từ ngày 01/10/2020 cho đến ngày 06/10/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

2. Bị cáo Lò Văn D; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1985 tại xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản H, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ ( Đảng, chính quyền, đoàn thể): Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam sinh hoạt tại Chi bộ Bản H - Đảng bộ xã M. Đã bị đình chỉ sinh hoạt Đảng theo Quyết định số: 11/QĐ-UBKT HU ngày 17/12/2020 của Ủy ban kiểm tra Huyện ủy Thuận Châu; Con ông : Lò Văn N, sinh năm: 1966 và bà Lò Thị K, sinh năm: 1966; Bị cáo có vợ: LườngThi T, sinh năm: 1984 và 02 con, lớn nhất 15 tuổi và nhỏ nhất 08 tuổi; Tiền án: Không; Tiền sự : Không; Nhân thân :Ngày 06/10/2016 bị Công an huyện Thuận Châu xử phạt hành chính số tiền: 1.500.000 đồng về hành vi đánh bạc ( đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính ). Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn (Tạm giữ) từ ngày 01/10/2020 cho đến ngày 06/10/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

3. Bị cáo Lường Văn S; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1978 tại xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản T, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Trình độ học vấn: 02/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông : Lường Văn T, sinh năm: 1922 và bà Lường Thị S , sinh năm: 1922; Bị cáo có vợ: Quàng Thị K, sinh năm: 1977 và 02 con, lớn 24 tuổi và nhỏ 14 tuổi; Tiền sự : Không; Tiền án : Không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn (Tạm giữ) từ ngày 01/10/2020 cho đến ngày 06/10/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

4. Bị cáo Quàng Văn Đ; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1992 tại xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản T, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông : Quàng Văn Đ, sinh năm: 1965 và bà Cà Thị D, sinh năm: 1968; Bị cáo có vợ: Lường Thị L, sinh năm: 1994; Tiền sự : Không; Tiền án : Không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn (Tạm giữ) từ ngày 01/10/2020 cho đến ngày 06/10/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

5. Bị cáo Quàng Văn N; Tên gọi khác: Không; Sinh năm: 1983 tại xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Nơi cư trú: Bản T, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; Trình độ học vấn: 09/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông : Quàng Văn P, sinh năm: 1965 và bà Cà Thị L, sinh năm: 1967; Bị cáo có vợ: Quàng Thị T sinh năm: 1983 và 02 con, lớn 24 tuổi và nhỏ 14 tuổi; Tiền sự : Không; Tiền án : Không; Nhân thân : Năm 2017 bị Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu xử phạt hình phạt chính là phạt tiền 8.000.000 đồng về tội Đánh bạc (đã được xóa án tích); Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn (Tạm giữ) từ ngày 01/10/2020 cho đến ngày 06/10/2020 được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S: ông Lường Văn Huấn - Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho các bị cáo Quàng Văn N, Quàng Văn Đ : ông Nguyễn Phương Vũ - Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan : chị Lường Thị T; Sinh năm: 1984; Nơi cư trú : Bản H, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Quàng Thị T sinh năm: 1983; Nơi cư trú : Bản T, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa.

* Người phiên dịch cho bị cáo Quàng Văn Đ, bị cáo Lường Văn S, chị Lường Thị T, chị Quàng Thị T: Anh Tòng Văn Học. Nơi công tác : Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 17 giờ 00 phút ngày 01/10/2020 Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu làm nhiệm vụ tại khu vực Bản Hia xã Mường É huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang các đối tượng gồm: Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N có hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi liêng cá cược, sát phạt nhau thắng thua bằng tiền tại nhà của Lò Văn D. Tang vật thu giữ gồm:

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 1.400.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc ( Theo các đối tượng khai nhận là tiền bỏ ra để đánh bạc “ Góp gà” do ván bạc đang chơi).

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 3.500.000 đồng thu giữ trong chiếc chăn quận tròn để trên giường cuối cùng bên phải theo hướng cửa chính đi vào cửa nhà của Lò Văn D.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 3.000.000 đồng thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Lò Văn D.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 4.000.000 đồng thu giữ trong chiếc đệm quận tròn trên giường cuối cùng bên phải theo hướng cửa chính đi vào cửa nhà của Lò Văn D.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 4.000.000 đồng thu giữ trong ví ở túi quần phía trước bên phải của Quàng Văn N.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 3.400.000 đồng thu giữ dưới gầm giường cuối cùng bên trái theo hướng cửa chính đi vào cửa nhà của Lò Văn D.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 40.000 đồng thu giữ trong túi quần phía sau bên phải của Quàng Văn N.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 3.300.000 đồng thu giữ trong túi quần phía sau bên phải của Quàng Văn Đ.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 950.000 đồng thu giữ trong túi quần phía sau bên trái của Quàng Văn Đ.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 100.000 đồng thu giữ trong túi quần phía sau bên phải của Lường Văn S.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 50.000 đồng thu giữ trong túi quần phía trước bên trái của Lường Văn S.

- Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 840.000 đồng thu giữ dưới đệm ngủ trên giường ở vị trí giữa đối diện cửa chính đi vào cửa nhà của Lò Văn D (D khai là tiền riêng của vợ D).

Tổng số tiền thu giữ trên người, trên chiếu bạc, tại vị trí các đối tượng ngồi đánh bạc và các vị trí gần chiếu bạc là: Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 24.580.000 đồng.

- Một bộ bài tú lơ khơ 52 (Năm mươi hai) quân bài đã qua sử dụng (Theo các đối tượng khai nhận sử dụng vào việc đánh bạc).

- Một chiếc chiếu nhựa màu đỏ - đen - trắng - vàng có kích thức 4x2 m đã qua sử dụng cũ (Theo các đối tượng khai nhận sử dụng để ngồi đánh bạc).

- Một điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, vỏ máy màu đỏ - đen, tên thiết bị OPPO A3s, kiểu máy CPH1803, có số IMEI 1: 861703047672016, số IMEI 2: 861703047672008 đã qua sử dụng tạm giữ của Lò Văn D.

- Một điện thoại di động bàn phím nhãn hiệu MASSTEL, vỏ máy màu xanh có số IMEI 1: 352121080355967; số IMEI 2: 352121080355975 đã qua sử dụng tạm giữ của Lường Văn S.

- Một chiếc ví giả da màu nâu, trên mặt ví có dòng chữ WALLET FASHION, nhãn hiệu H2 đã qua sử dụng cũ tạm giữ của Quàng Văn N.

Ngày 02/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã ra Quyết định trưng cầu giám định số: 3694 /QĐTC ngày 02/10/2020 trưng cầu Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La giám định số tiền: 24.580.000 đồng thu giữ của Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ và Quàng Văn N vào ngày 01/10/2020. Tại Kết luận giám định số: 1557 ngày 08/10/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: số tiền 24.580.000 VNĐ gửi giám định là tiền thật. Hoàn lại đối tượng giám định: Toàn bộ số tiền gửi giám định.

Tại Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ và Quàng Văn N đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 13 giờ 45 phút, ngày 01/10/2020 khi Lò Văn D đang ở nhà tại bản Hịa, Mường É, Thuận Châu thì có Quàng Văn Đ đến nhà D chơi, được khoảng 15 phút thì Đ rủ D đánh bạc và bảo D gọi điện cho Lường Văn S, lên nhà D để đánh bạc, D đồng ý và lấy điện thoại của mình gọi điện cho S rủ lên nhà D để đánh bạc. S đồng ý. Khoảng 15 phút sau thì Lường Văn S đến nhà D, được một lúc thì có Quàng Văn Đ cũng đến nhà D chơi. Thấy Đ1 đến thì D, Đ, S rủ Đ1 cùng đánh bạc, Đ1 đồng ý. Sau đó cả 4 người cùng nhau đi lên tầng 2 nhà sàn của D để đánh bạc. Cả bốn người cùng thống nhất đánh bạc bằng hình thức sử dụng một bộ tú lơ khơ 52 quân bài để Chơi liêng sát phạt nhau bằng tiền, với hình thức chơi như sau: Trước khi chia bài thì mỗi người chơi đều bỏ ra số tiền: 50.000 đồng đặt xuống chiếu bạc để góp tiền làng ( Góp gà), sau đó mỗi người được chia 03 quân bài, sau khi mọi người kiểm tra bài thì người chia bài nếu xét thấy bài của mình có thể thắng những người còn lại thì sẽ là người đầu tiên đưa ra mức cá cược (Tố) với mức thấp nhấp là 50.000 đồng, cao nhất là 100.000 đồng và bỏ số tiền mà mình cá cược xuống chiếu bạc, người tiếp theo được tham gia cá cược là người ngồi bên tay phải theo thứ tự ngồi của người chia bài (Ngược chiều kim đồng hồ), nếu thấy bài của mình yếu thì có thể úp bài và chịu thua mất số tiền mình đã góp làng và đã cá cược, nếu xét thấy bài mình mạnh thì tham gia cá cược và đặt tiền cá cược xuống chiếu bạc, số tiền cá cược không được ít hơn mà phải bằng hoặc cao hơn số tiền người đã cá cược trước đó và không giới hạn số lần cá cược (Lần tố) trong một ván. Khi chỉ còn 02 người tham gia cá cược hoặc khi mọi người cùng thống nhất mở bài thì mọi người sẽ so bài với nhau để tìm người duy nhất thắng cuộc theo thứ tự từ lớn đến thấp cụ thể là: Sáp, Liêng, Ảnh, Điểm. Trong đó: Sáp là có 3 quân bài giống nhau thấp nhất là 2 2 2, cao nhất là A A A, - Liêng là có 3 quân bài thứ tự liền kề nhau, thấp nhất là A 2 3, cao nhất là Q K A- Ảnh là có 3 quân bài từ J đến K trong đó có 01 quân bài không trùng với 2 quân bài còn lại, thấp nhất là J J Q, cao nhất là K K Q - Điểm là thấp nhất sẽ cộng điểm của 3 quân bài lại ( Không cộng tính điểm quân bài từ 10 đến K) theo thang điểm 9, ai cao điểm hơn là người thắng cuộc. Người thắng cuộc sẽ được hưởng toàn bộ số tiền mà những người còn lại đã góp tiền làng và đã cá cược bỏ xuống chiếu bạc. Mỗi ván chơi người chơi có thể cá cược (Tố) hoặc không cá cược, nếu có 02 người trở lên có sáp, liêng, ảnh hoặc điểm bằng nhau thì sẽ so bài sáp, liêng, ảnh, điểm ai cao nhất sẽ thắng, nếu điểm bằng nhau thì sẽ so chất từ lớn đến bé là theo thứ tự là: Rô, Cơ, Tép, Bích. Sau đó D lấy bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài có sẵn dưới gầm giường và cùng 3 người ngồi xuống chiếu đã trải sẵn trong nhà D rồi chia bài cùng nhau đánh bạc. Khi cả bốn người cùng đánh bạc được khoảng 20 phút thì có Quàng Văn N đến và tham gia đánh bạc cùng Đ, D, S, Đ1 với hình thức và mức cá cược như ban đầu mà Đ, D, S, ĐI đã thống nhất. Khi cả 5 người đang đánh bạc sát phạt nhau đến khoảng 17 giờ cùng ngày thì bị Tổ công tác Công an huyện Thuận Châu phát hiện bắt quả tang thu giữ tang vật như đã nêu trên. Sau đó Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ và Quàng Văn N cùng tang vật đã được dẫn giải về Công an huyện Thuận Châu xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra xác định được tổng số tiền mà Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ và Quàng Văn N sử dụng vào mục đích đánh bạc là: 12.740.000 đồng, trong đó số tiền từng người sử dụng vào việc đánh bạc và số tiền thắng, thua bạc tại thời điểm bị bắt giữ cụ thể như sau:

Quàng Văn Đ mang theo 4.300.000 đồng, sử dụng toàn bộ số tiền: 4.300.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt giữ đang thua bạc số tiền 1.000.000 đồng nên thu giữ của Đ số tiền: 3.300.000 đồng.

Lò Văn D có 10.000.000 đồng, D chỉ sử dụng 3.000.000 đồng để đánh bạc, còn 7.000.000 đồng D không sử dụng vào việc đánh bạc. Khi bị bắt giữ đang thắng bạc số tiền 500.000 đồng nên thu giữ của D tổng số tiền: 10.500.000 đồng.

Lường Văn S mang theo 2.000.000 đồng, S sử dụng toàn bộ số tiền: 2.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt giữ S đang thua bạc số tiền 1.850.000 đồng nên thu giữ của S số tiền: 150.000 đồng.

Quàng Văn Đ mang theo 2.000.000 đồng, Đ1 sử dụng toàn bộ số tiền: 2.000.000 đồng để đánh bạc. Khi bị bắt giữ Đ1 đang thua bạc số tiền 1.050.000 đồng nên thu giữ của Đ1 số tiền: 950.000 đồng.

Quàng Văn N mang theo: 5.440.000 đồng, N chỉ sử dụng số tiền 1.440.000 đồng để đánh bạc, còn 4.000.000 đồng N không sử dụng vào việc đánh bạc. Khi bị bắt giữ đang thắng bạc số tiền 2.000.000 đồng nên thu giữ của N tổng số tiền: 7.440.000 đồng.

Tại phiên tòa, lời khai, lời trình bày ý kiến của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án như: biên bản hỏi cung bị can; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản xác minh, biên bản thu giữ, niêm phong, mở niêm phong và giao nhận đối tượng giám định, kết luận giám định.

Bản cáo trạng số: 02/CT-VKSTC, ngày 17/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố các bị cáo về tội đánh bạc theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N về tội đánh bạc. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, LườngVăn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N phạm tội: Đánh bạc.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn Đ từ 24 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ . Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 23 tháng 12 ngày đến 29 tháng 12 ngày, tính từ ngày UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn D từ 24 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 23 tháng 12 ngày đến 29 tháng 12 ngày, tính từ ngày UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Lường Văn S 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 17 tháng 12 ngày đến 23 tháng 12 ngày, tính từ ngày UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn Đ 18 đến 24 tháng cải tạo không giam giữ . Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 17 tháng 12 ngày đến 23 tháng 12 ngày, tính từ ngày UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự :

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn N từ 24 đến 30 tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 23 tháng 12 ngày đến 29 tháng 12 ngày, tính từ ngày UBND xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

* Giao các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, LườngVăn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N cho UBND xã M huyện Thuận Châu giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N có trách nhiệm phối hợp với UBND xã M, huyện Thuận Châu giám sát, giáo dục các bị cáo.

* Miễn khấu trừ một phần thu nhập cho các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Về vật chứng:

Áp dụng điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: một chiếc chiếu nhựa màu đỏ - đen - trắng - vàng có kích thức 4x2 m đã qua sử dụng cũ; Một bộ bài tú lơ khơ 52 (Năm mươi hai) quân bài đã qua sử dụng là công cụ, một chiếc ví giả da màu nâu, trên mặt ví có dòng chữ WALLET FASHION, nhãn hiệu H2 đã qua sử dụng.

Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước : Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 12.740.000 đồng là tiền các bị cáo dùng vào việc phạm tội; Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, vỏ máy màu đỏ - đen, đã qua sử dụng thu của Lường Văn D; Một điện thoại di động bàn phím nhãn hiệu MASSTEL, vỏ máy màu xanh đã qua sử dụng tạm giữ của Lường Văn S.

Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện Thuận Châu đã trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị T số tiền 7.840.000 đồng và chị Quàng Thị T số tiền là 4.000.000 đồng.

Về án phí: Áp dụng điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án : Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự : Các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị T, Quàng Thị T được kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Tại phiên tòa các bị cáo có ý kiến : Thừa nhận ngày 01/10/2020, bị cáo Đ, Dũng, S, Đ, N có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức chơi liêng, sát phạt nhau bằng tiền mặt tại nhà Lò Văn D tại bản H, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhằm mục đích kiếm tiền tiêu sài cá nhân. Tổng số tiền của các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 12.740.000 đồng. Hành vi trên của các bị cáo đã phạm vào tội đánh bạc, quy định tại khoản 1 Điều 321 bộ luật hình sự. Nay các bị cáo đã nhận ra hành vi phạm tội của mình, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo phạt cải tạo không giam giữ.

Tại phiên tòa ông Lường Văn Huấn - Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý người bào chữa cho các bị cáo Quàng Văn Đ , Lò Văn D, Lường Văn S: Trong bản luận cứ bào chữa nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ để xét xử đối với các bị cáo với mức án nhẹ nhất cho các bị cáo phạt cải tạo không giam giữ, tạo cơ hội cho các bị cáo sửa chữa lỗi lầm trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

Tại phiên tòa ông Nguyễn Phương Vũ - Luật sư, Trợ giúp viên pháp lý người bào chữa cho các bị cáo Quàng Văn N , Quàng Văn Đ : Trong bản luận cứ bào chữa nhất trí với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hành vi phạm tội, nhân thân va các tình tiết giảm nhẹ để xét xử đối với các bị cáo với mức án nhẹ nhất cho các bị cáo phạt cải tạo không giam giữ, tạo cơ hội cho các bị cáo sửa chữa lỗi lầm trở thành người công dân tốt có ích cho xã hội.

Ý kiến của các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N nhất trí với lời bào chữa của người bào chữa.

Ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị T, Quàng Thị T nhất trí với lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát liên quan đến phần quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Lời nói sau cùng của các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử bị cáo về tội Đánh bạc. Nay các bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, các bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo phạt cải tạo không giam giữ, các bị cáo xin miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét hành vi của các bị cáo Quàng Văn Đ , Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ , Quàng Văn N là vi phạm pháp luật bởi: các bị cáo đã thực hiện hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức chơi liêng, sát phạt được thua bằng tiền mặt tại nhà Lò Văn D tại bản H, xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, với mục đích tư lợi cá nhân, bị pháp luật nghiêm cấm. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 12.740.000 đồng. Như vậy hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội đánh bạc, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự như quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu là đứng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Hành vi của các bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội bởi nó đã xâm phạm đến trật tự công cộng, tài sản của công dân mà trực tiếp là xâm phạm đến nếp sống văn minh của xã hội. Cần vận dụng khoản 1 Điều 321 Bộ luật hình sự để có mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N.

[3] Xét vị trí vai trò của các đồng phạm thấy: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, không có sư phân công , tổ chức bởi các bị cáo đều cùng rủ rê nhau và cùng thực hiện hành vi phạm tội, tuy nhiên trong đó bị cáo Quàng Văn Đ là người khởi xướng, rủ rê việc đánh bạc, bị cáo Lò Văn D là người rủ rê, tạo địa điểm, công cụ, phương tiện phạm tội, các bị cáo Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N thực hiện hành vi đồng phạm tích cực do đó cần vận dụng Điều 58 Bộ luật hình sự để cá thể hóa mức hình phạt đối với các bị cáo.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Các bị cáo biết rõ việc đánh bạc là hành vi bị Nhà nước nghiêm cấm, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội đặc biệt là nếp sống văn minh, là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy cần lên một mức án mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, trên cơ sở xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ đều phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra các bị cáo sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của huyện Thuận Châu, trình độ hiểu biết pháp luật hạn chế. Bị cáo Lường Văn S có bố là người có công với cách mạng. Bị cáo Lò Văn D có ông nội, ông ngoại là người có có công với cách mạng. Bị cáo Quàng Văn N có thương tật, hạn chế khả năng lao động đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Về nhân thân : Các bị cáo Quàng Văn Đ , Lường Văn S, Quàng Văn Đ là người chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Quàng Văn N có 01 tiền án về tội Đánh bạc (đã được xóa án tích), bị cáo Lò Văn D có 01 tiền sự ( đã hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý hành chính),

[5] Xét đơn yêu cầu được hưởng mức án cải tạo không giam giữ của bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N có xác nhận của chính quyền địa phương cũng như đơn bảo lãnh của gia đình các bị cáo thấy: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự , ngoài ra các bị cáo Quàng Văn Đ , Lò Văn D , Lường Văn S, Quàng Văn Đ phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng ; bị cáo Quàng Văn N tuy đã có 01 tiền án nhưng đã được xóa án tích. Ngoài lần phạm tội này luôn chấp hành tốt chính sách pháp luật và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân ở nơi cư trú; đều có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên ; có nơi cư trú rõ ràng , ổn định để cơ quan có thẩm quyền giám sát, giáo dục; xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù giam bởi các bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho các bị cáo hưởng án mức an cải tạo không giam giữ không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; không cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội, cho bị cáo cơ hội cải tạo ngoài cộng đồng cũng đảm bảo tính răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm nói chung, đồng thời cũng thể hiện chính sách pháp luật nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước, thể hiện đường lối xét xử nghiêm trị kết hợp giáo dục cải tạo nên áp dụng Điều 36 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Trong thời gian chấp hành án, Quàng Văn Đ , Lò Văn D , Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N phải thực hiện một số nghĩa vụ theo các quy định về cải tạo không giam giữ và bị khấu trừ một phần thu nhập từ 05% đến 20% để sung quỹ nhà nước. Tuy nhiên các bị cáo đều là những người nông dân, không có việc làm, thu nhập thấp và đều là những hộ cận nghèo do vậy Hội đồng xét xử miễn việc khấu trừ thu nhập cho các bị cáo.

[6] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự, xét thấy các bị cáo đều là hộ cận nghèo, không có tài sản, không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử miễn phạt bổ sung là phạt tiền cho các bị cáo.

[7] Đối với số tiền thu giữ của Lò Văn D : 7.840.000 đồng và thu giữ của Quàng Văn N: 4.000.000 đồng. Quá trình điều tra xác định được số tiền trên Lò Văn D và Quàng Văn N không sử dụng vào mục đích đánh bạc, mà là tiền của chị Lường Thị Tiện (vợ của Lò Văn D) và của chị Quàng Thị T (vợ của Quàng Văn N). Xét thấy số tiền trên không liên quan đến hành vi phạm tội của Lò Văn D và Quàng Văn N nên ngày 01/12/2020 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã trả lại cho chị Lường Thị T số tiền 7.840.000 đồng và trả lại cho chị Quàng Thị T số tiền 4.000.000 đồng là có căn cứ, đúng pháp luật.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người bào chữa cho các bị cáo , người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về vật chứng: Đ với một chiếc chiếu nhựa màu đỏ, đen, trắng, vàng có kích thức 4x2 m đã qua sử dụng cũ; Một bộ bài tú lơ khơ 52 quân bài đã qua sử dụng là công cụ, một chiếc ví giả da màu nâu, trên mặt ví có dòng chữ WALLET FASHION, nhãn hiệu H2 đã qua sử dụng công cụ các bị cáo dùng vào việc phạm tội và hết giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy; Đối với tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 12.740.000 đồng là tiền các bị cáo dùng vào việc phạm tội; Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, vỏ máy màu đỏ, đen, đã qua sử dụng thu của Lường Văn D; Một điện thoại di động bàn phím nhãn hiệu MASSTEL, vỏ máy màu xanh đã qua sử dụng tạm giữ của Lường Văn S là phương tiện dùng vào việc phạm tội cần tuyên tịch thu, nộp ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[10] Về án phí: Các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N thuộc hộ cận nghèo theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

[12] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị T ; Quàng Thị T được kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại các Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N phạm tội: Đánh bạc.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn Đ 24 ( hai mươi tư ) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 23 ( hai mươi ba ) tháng 12 ( mười hai ) ngày, tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Lò Văn D 24 ( hai mươi tư ) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 23 ( hai mươi ba ) tháng 12 ( mười hai) ngày, tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Lường Văn S 18 ( mười tám ) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 17 (mười bảy ) tháng 12 ( mười hai) ngày, tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn Đ1 18 ( mười tám ) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 17 (mười bảy ) tháng 12 ( mười hai) ngày, tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và ban sao bản án của Tòa án.

Áp dụng khoản 1 Điền 321; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58; Điều 36 Bộ luật hình sự :

- Xử phạt bị cáo Quàng Văn N 24 ( hai mươi tư ) tháng cải tạo không giam giữ. Khấu trừ thời gian bị cáo đã bị tạm giữ, tạm giam 06 (sáu) ngày, quy đổi thành 18 (mười tám) ngày cải tạo không giam giữ. Bị cáo còn phải chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ là 23 ( hai mươi ba ) tháng 12 ( mười hai ) ngày, tính từ ngày Ủy ban nhân dân xã M, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La nhận được Quyết định thi hành án và bản sao bản án của Tòa án.

* Giao các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ1, Quàng Văn N cho Ủy ban nhân dân xã M, huyện Thuận Châu giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân xã M, huyện Thuận Châu giám sát, giáo dục các bị cáo.

* Miễn khấu trừ một phần thu nhập cho các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ1, Quàng Văn N.

* Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng:

Căn cứ vào điểm a, b khoản 1, khoản 2 Điều 47 bộ luật hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ Một chiếc chiếu nhựa màu đỏ - đen - trắng - vàng có kích thức 4x2 m đã qua sử dụng cũ;

+ Một bộ bài tú lơ khơ 52 (Năm mươi hai) quân bài đã qua sử dụng.

+ Một chiếc ví giả da màu nâu, trên mặt ví có dòng chữ WALLET FASHION, nhãn hiệu H2 đã qua sử dụng.

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước :

+ Tiền Ngân hàng nhà nước Việt Nam: 12.740.000 đồng ( mười hai triệu bảy trăm bốn mươi nghìn đồng ) cho vào 08 phong bì bưu điện Việt Nam viền xanh đỏ đã bị cắt mép phải và dập ghim. Đựng trong hòm tôn màu trắng có kích thước 27 x 20cm x 12 cm và đóng nắp hòm bằng khóa sắt màu vàng, nhãn hiệu VIỆT NHẬT, được dán niêm phong bằng băng dính trong suốt, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và 02 hình dấu đỏ của cơ quan điều tra công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La ( Giấy niêm phong không bị rách, biến dạng, không bị mất, không bị biến dạng các thông tin ghi trong giấy niêm phong ) đề lên phần mép mở hòm. Mặt trên hòm dán một tờ giấy trắng kích thước 17 cm x 4cm ghi dòng chữ “ Vật chứng vụ án Quàng Văn Đ đánh bạc cùng đồng phạm xảy ra ngày 01/10/2020.

+ Một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO, vỏ máy màu đỏ - đen, tên thiết bị OPPO A3s, kiểu máy CPH1803, có số IMEI 1 : 861703047672016, số IMEI 2 : 861703047672008 đã qua sử dụng.

+ Một điện thoại di động bàn phím nhãn hiệu MASSTEL, vỏ máy màu xanh có số IMEI 1 : 352121080355967, số IMEI 2 : 352121080355975 đã qua sử dụng.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng, tài sản ngày 14/12/2020 và ngày 09/11/2020 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện Thuận Châu và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thuận Châu).

- Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu đã trả lại cho người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị T số tiền 7.840.000 đồng ( bảy triệu tám trăm bốn mươi nghìn đồng ) và chị Quàng Thị T số tiền là 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

3. Về án phí:

Căn cứ vào điểm d khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/ 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án : Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N.

4. Quyền kháng cáo:

Căn cứ vào Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự :

Các bị cáo Quàng Văn Đ, Lò Văn D, Lường Văn S, Quàng Văn Đ, Quàng Văn N được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị T, Quàng Thị T được kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi , nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2021/HSST ngày 27/01/2021 về tội đánh bạc

Số hiệu:33/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;