Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG RIỀNG, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ TRANH CHẤP THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 568/2020/TLST - HNGĐ ngày 07 tháng 12 năm 2020 về việc “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2021. Giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Lưu Thị Tr, sinh năm: 1988; địa chỉ: ấp Xẻo Dầu, xã Hòa An, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (có mặt)

2. Bị đơn: Anh Huỳnh Văn Tr, sinh năm: 1985; địa chỉ: ấp Hòa Thành, xã Hòa Hưng, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 12/11/2020 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Chị Trtrình bày:

Ngày 14/8/2017, Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang ban hành quyết định số 179/2017/QĐST-HNGĐ, nội dung: Công nhận sự thuận tình ly hôn và thỏa thuận nuôi con giữa chị và anh Tuấn. Khi thỏa thuận ly hôn chị đồng ý giao con chung là cháu Huỳnh Tuấn Hưng, sinh ngày: 08/5/2013 cho anh Tuấn nuôi dưỡng Tuy nhiên, sau khi ly hôn thì anh Tuấn đi làm thuê, không thường xuyên có mặt tại nhà, cháu Hưng là con chung giữa chị và anh Tdo cha, mẹ ruột của anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong thời gian này chị thường xuyên đến chăm sóc và xét thấy việc nuôi dưỡng của anh T đối với cháu Hưng không tốt, tại nơi cư trú của anh Tkhông có đủ điều kiện để cháu Hưng đi học mặc dù hiện nay cháu đã đủ tuổi để đến trường. Đồng thời, cháu Hưng có nguyện vọng muốn được ở với chị nên chị đã đem cháu về trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng ổn định kể từ năm 2018 cho đến nay và đã cho cháu đi học, khi chị đem cháu Hưng về nuôi thì anh T biết nhưng không có ý kiến.

Nay chị khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết giao cháu Hưng cho chị được quyền trực tiếp nuôi dưỡng, chị đủ điều kiện để nuôi con nên không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án nhưng hết thời gian quy định vẫn không gửi văn bản nêu ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án đã triệu tập anh T đến tham dự phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải đến lần thứ hai và triệu tập đến tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng anh vẫn vắng mặt, không rõ lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Chị Tr yêu cầu Tòa án giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi cháu Hưng sau khi ly hôn đối với anh T nên đây là “Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo quy định tại khoản 3 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Anh T là bị đơn trong vụ án có nơi cư trú tại huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang nên theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Anh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án:

Trong thời kỳ hôn nhân Chị Tr và anh T có một con chung là cháu Huỳnh Tuấn Hưng, sinh ngày: 08/5/2013. Theo quyết định số 179/2017/QĐST-HNGĐ ngày 14/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang thì anh T được quyền nuôi dưỡng cháu Hưng, Chị Tr không phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét yêu cầu khởi kiện của Chị Tr về việc được quyền nuôi cháu Hưng, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi ly hôn thì anh T đi làm thuê, không thường xuyên có mặt tại nhà, cháu Hưng là con chung giữa chị và anh Tdo cha, mẹ ruột của anh T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Trong quá trình thụ lý giải quyết vụ án, Tòa án có trực tiếp đến nhà để tống đạt văn bản cho anh T nhưng không gặp được anh T do anh T bận đi làm thuê, điều này chứng minh việc Chị Tr cho rằng anh T thường xuyên không có mặt tại nơi cư trú để chăm sóc cho cháu Hưng là có cơ sở để xem xét.

Từ năm 2018 Chị Tr đem cháu Tường về trực tiếp nuôi dưỡng và có trình báo với cha mẹ ruột anh T và cũng được cha mẹ ruột của anh T đồng ý. Sau đó anh T có biết nhưng cũng không có ý kiến gì. Hiện nay xét thấy dưới sự chăm sóc của chị Trúc, cháu Hưng đang sinh sống ổn định và phát triển bình thường về mọi mặt. Trong thời gian Chị Tr nuôi dưỡng cháu Hưng đảm bảo sự phát triển về mọi mặt. Hội đồng xét xử thấy rằng yêu cầu của Chị Tr là hoàn toàn chính đáng, phù hợp với quy định của pháp luật và cần được xem xét để đảm bảo sự phát triển tốt nhất về mọi mặt cho cháu Hưng.

Về điều kiện nuôi con, quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ sau khi ly hôn: Chị Tr xác định hiện nay chị có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi con, không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng nuôi con. Chị Tr đảm bảo không gây khó khăn cho anh T trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con.

Mặt khác, cháu Huỳnh Tuấn Hưng, sinh ngày: 08/5/2013 (trên 07 tuổi), theo biên bản ghi nguyện vọng của cháu tại Tòa án ngày 11/12/2020 và tại phiên tòa cháu Hưng có nguyện vọng được ở với mẹ là chị Trúc. Do đó chị Trúc, anh T cần phải tôn trọng ý kiến của cháu và nguyện vọng của cháu Hưng cần được Hội đồng xét xử xem xét theo khoản 3 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình.

Từ những nhận định nêu trên cho thấy: Việc Chị Tr chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Hưng tốt hơn so với anh Tuấn, nguyện vọng của cháu Hưng muốn được ở với mẹ là chị Trúc. Chị Tr yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con xuất phát từ việc nhằm đảm bảo sự phát triển về mọi mặt cho cháu Hưng, đặc biệt là các điều kiện cho sự phát triển về thể chất, bảo đảm việc học hành và các điều kiện cho sự phát triển tốt về tinh thần của cháu Hưng. Căn cứ vào Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trúc, giao cháu Huỳnh Tuấn Hưng, sinh ngày: 08/5/2013 cho Chị Tr được quyền nuôi dưỡng, Chị Tr không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét. Anh T được quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

[3] Về án phí:

Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Anh Tuán phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Tuy nhiên, Chị Tr tự nguyện nhận trách nhiệm nộp thay án phí cho anh T nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005753 ngày 07/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 3 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình;

Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Lưu Thị Tr đối với Anh Huỳnh Văn Tr. Giao cháu Huỳnh Tuấn Hưng, sinh ngày: 08/5/2013 cho Chị Tr được quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành (trừ trường hợp thay đổi quyền nuôi con theo quy định pháp luật). Anh Tcó quyền đến thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung không ai được quyền cản trở.

2. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Lưu Thị Tr không yêu cầu nên không giải quyết.

3. Về án phí: Anh Huỳnh Văn T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Tuy nhiên, Chị Lưu Thị Tr tự nguyện nhận trách nhiệm nộp thay án phí cho anh Tuấn, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí Chị Tr đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0005753 ngày 07/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 30/3/2021, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

212
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2021/HNGĐ-ST ngày 30/03/2021 về tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn

Số hiệu:33/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;