Bản án 33/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY ĐỨC, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 33/2020/HS-ST NGÀY 24/11/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Đức mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 38/2020/TLST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2020/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Hờ Thị D, sinh năm 1978 tại tỉnh Điện Biên; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: bản HC, xã PS, huyện TG, tỉnh Điện Biên; Chỗ ở: bản NH, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Nghề nghiệp: làm nông; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Tin Lành; con ông Hờ A G và bà Sùng Thị Ch (đã chết); có chồng là Sùng A T (đã chết) và 05 con,lớn nhất sinh năm 1995,nhỏ nhất sinh năm 2002; bị bắt tạm giữ từ ngày 18/6/2020, sau đó chuyển tạm giam, đang bị tạm giam – có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Dính: Bà Bùi Thị H và bà Vi Thị A – Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Đắk Nông, bào chữa theo yêu cầu của bị cáo – vắng mặt.

- Người phiên dịch: Ông Lý Văn Ch - Chức vụ: Bí thư Đoàn xã.

Nơi công tác: Ủy ban nhân dân xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông – có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Nông Văn H – vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 5, xã QT, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông.

- Người làm chứng:

Hờ Thị D1, sinh năm 1962 – có mặt.

Địa chỉ: Bản NH, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông. Trần Hải B, sinh năm 1980 – vắng mặt.

Địa chỉ: Thôn 1, xã NT, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hờ Thị D, sinh năm 1978 có hộ khẩu thường trú tại bản HC, xã PS, huyện TG, tỉnh Điện Biên là đối tượng nghiện ma túy.

Khoảng tháng 5/2019, Hờ Thị D đến ở nhờ nhà chị Hờ Thị D1 (là cô của Hờ Thị D) trú tại bản NH, xã ĐN, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông để đi làm thuê. Vào chiều ngày 17/6/2020, Hờ Thị D đến bờ đập bản NH, xã ĐN mua 500.000đ ma túy của một người đàn ông (chưa xác định nhân thân, lai lịch) về để bán kiếm lời.

Đến 10 giờ ngày 18/6/2020, trong lúc Hờ Thị D ở nhà thì có Nông Văn H (sinh năm 1971, trú tại thôn 5, xã QT, huyện TĐ, tỉnh Đắk Nông) đến hỏi mua 300.000 đ ma túy thì được Hờ Thị D đồng ý. Hờ Thị D nhận 300.000đ, rồi lấy từ trong túi vải màu đen đang đeo trên người ra 03 gói nilon màu hồng rồi để xuống nền nhà trước mặt Nông Văn H. Thấy vậy, Nông Văn H nhặt 01 gói ma túy đi ra phía sau nhà bếp chia ra làm đôi để sử dụng một nửa thì bị Cơ quan CSĐT Công an huyện Tuy Đức phát hiện bắt quả tang và thu giữ cùng tang vật. Ngoài ra, Hờ Thị D còn tự nguyện giao nộp 01 lọ nhựa màu trắng bên trong có 03 gói nilon màu hồng có chứa chất bột màu trắng (theo lời khai của Hờ Thị D khai mục đích để bán và kiếm lời) và 1.760.000 đồng.

Tại bản Kết luận giám định số 91/KLMT-PC09 ngày 26/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận:

- Chất rắn màu trắng đựng 03 gói nilon màu hồng bỏ trong hộp nhựa niêm phong trong bì thư thứ nhất là chất ma túy, là Heroine, có khối lượng là 0,1558 gam; hoàn lại sau giám định là 0,0830 gam;

- Chất rắn màu trắng đựng trong 02 gói nilon màu hồng niêm phong trong bì thư thứ hai (ma túy thu trên nền nhà) là chất ma túy, là Heroine, có khối lượng là 0,1537 gam; hoàn lại sau giám định là 0,0862 gam;

- Chất rắn màu trắng đựng trong 01 gói nilon màu hồng niêm phong trong bì thư thứ ba (ma túy thu trên người Nông Văn H) là chất ma túy, là Heroine, có khối lượng là 0,0081 gam. Đã sử dụng hết trong công tác giám định.

Tổng khối lượng ma túy là 0,3176 gam; hoàn lại sau giám định là 0,1692 gam.

Cáo trạng số: 44/CTr-VKS ngày 13-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức đã truy tố bị cáo Hờ Thị D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Hờ Thị D đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra và thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức truy tố bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự là đúng, không oan.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hờ Thị D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Áp dụng khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hờ Thị D từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đề nghị tuyên Tịch thu tiêu hủy 0,1692 gam ma túy là Heroine (hoàn lại sau giám định); tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 300.000đ do Hờ Thị D bán ma túy mà có.

Đề nghị tuyên trả lại số tiền 1.460.000đ cho Hờ Thị D do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với người đàn ông (chưa xác định nhân thân lai lịch) đã bán ma túy cho Hờ Thị D, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức đang tiếp tục điều tra, xác minh, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

Đối với Nông Văn H là người mua ma túy của Dính để sử dụng, H mới nhận 01 gói ma túy có khối lượng 0,0081gam để sử dụng, không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển hồ sơ cho Công an huyện Tuy Đức xử lý hành chính là phù hợp, cần chấp nhận.

Tại phiên tòa, bị cáo Hờ Thị D không yêu cầu sự có mặt tham gia phiên tòa của người bào chữa, không bào chữa gì về hành vi phạm tội của mình chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ được thu thập lưu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa và phù hợp với các tình tiết khách quan của vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ để kết luận:

Xuất phát từ ý thức coi thường pháp luật, nên vào ngày 17/6/2020, Hờ Thị D đã mua ma túy của một người đàn ông (chưa xác định nhân thân, lai lịch) tại bản NH, xã ĐN với giá 500.000đ để sử dụng và bán kiếm lời; Ngày 18/6/2020, khi bị cáo bán ma túy cho Nông Văn H thì bị bắt quả tang. Tổng khối lượng ma tuý thu giữ của Hờ Thị D là 0,3176 gam.

Vì vậy, có đủ căn cứ pháp lý để kết luận bị cáo Hờ Thị D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Quan điểm đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Đức là có căn cứ pháp luật.

Điều 251 Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[3] Xét tính chất hành vi phạm tội do bị cáo Hờ Thị D gây ra là nghiêm trọng; xâm phạm trực tiếp đến chế độ độc quyền quản lý nhà nước về các chất ma túy, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội. Bị cáo nhận thức được hành vi mua bán trái phép chất ma túy bị Nhà nước nghiêm cấm và trừng trị nghiêm khắc nhưng do ý thức xem thường pháp luật nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần phải xử phạt bị cáo mức hình phạt nghiêm khắc.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo là người dân tộc thiểu số, không biết chữ, trình độ nhận thức pháp luật hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, sinh sống ở địa bàn có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn nên cần áp dụng khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta.

[5] Đối với đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử xét thấy, khi bắt quả tang bị cáo tự nguyện giao nộp số ma túy trong người bị cáo đang giữ, khi cơ quan Cảnh sát điều tra chưa tiến hành việc khám xét trên người và nơi ở của bị cáo như vậy không thể xem hành vi giao nộp ma túy của bị cáo là tự thú nên không áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[6] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, Hôi đồng xét xử xét thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định thì mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[7] Về vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

Đối với 0,1692 gam ma tuý do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định cần tịch thu để tiêu huỷ.

Đối với số tiền 1.460.000đ thu giữ của Hờ Thị D nhưng không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với số tiền 300.000đ bị cáo Hờ Thị D có được từ việc mua bán ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[8] Đối với Nông Văn H là người mua ma túy của Dính để sử dụng, H mới nhận 01 gói ma túy có khối lượng 0,0081gam để sử dụng, không đủ định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự nên Công an huyện Tuy Đức xử lý hành chính là phù hợp, cần chấp nhận.

[9] Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án: Xét thấy bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hờ Thị D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Hờ Thị D 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù, về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, ngày 18/6/2020.

2. Về vật chứng: Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; căn cứ điểm a, b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 0,1692 gam ma tuý do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông hoàn lại sau giám định.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) do bị cáo Hờ Thị D phạm tội mà có.

Trả lại cho bị cáo Hờ Thị D số tiền 1.460.000đ (Một triệu bốn trăm sáu mươi nghìn đồng) là tài sản hợp pháp của bị cáo D.

(Đặc điểm của vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/10/2020 giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Đức và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuy Đức).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Hờ Thị D.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

291
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2020/HS-ST ngày 24/11/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Đức - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;