Bản án 33/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HẢI AN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 33/2019/HS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2019/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 11 năm 2019 đối với bị cáo:

Đặng Thị T (tức Anh), sinh năm 1974 tại Hải Phong; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Đội 9, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; chỗ ở: T, xã P, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Viêt Nam; con ông Đặng Văn B (đã chết) và bà Trần Thị P; có chồng là Nguyễn Sỹ H; tiền án, tiền sự: Không. Tạm giữ ngày 06/8/2019, chuyển tạm giam từ ngày 13/8/2019. Có mặt.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Văn T. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do có nhu cầu sử dụng ma túy, sáng ngày 06/8/2019, T đi xe đạp điện đến đường tàu Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố Hải Phòng để mua ma túy sử dụng. Tại đây, T gặp một thanh niên khoảng 20 tuổi (T không biết lai lịch, địa chỉ) và nhờ người này vào đường tàu mua hộ T 1.000.000đồng tiền ma túy đá. Sau khi người thanh niên mua được ma túy đưa cho T, T cất vào ví da màu đen rồi đi về nhà. Khoảng 14h cùng ngày, T đi taxi đến nhà Vũ Thị Thu H, sinh năm 1966, địa chỉ: Số 83/90 T, Tổ dân phố A 1, phường Đ, quận Hải An, thành phố Hải Phòng để trông nhà cho chị H. Đến khoảng 16h cùng ngày, khi T và H đang đứng ở đầu ngõ nhà H thì bị lực lượng chức năng kiểm tra bắt quả tang hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau dó, lực lượng Công an đưa T cùng toàn bộ tang vật về trụ sở làm việc.

* Vật chứng thu giữ Cơ quan điều tra đã xử lý như sau:

- 01 túi nilon màu trắng kích thước 3cmx3,5cm bên trong chứa tinh thể màu trắng.

- Các đồ vật, tài liệu: 01 điện thoại di động màu vàng đen mặt sau có chữ VERTU đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đen đã qua sử dụng; 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Đặng Thị T và số tiền 4.600.000đồng. Qua điều tra xác định không liên quan đến vụ án nên theo sự ủy quyền của T Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An đã trả lại cho anh Nguyễn Sỹ H là chồng của T.

Tại Kết luận giám định số 426/2019/KLGĐ ngày 12/8/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Tinh thể màu trắng thu giữ của Đặng Thị T là ma túy, có khối lượng 1,9953gam, là loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 30/CT-VKS ngày 05/11/2019 của Viện kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng đã truy tố Đặng Thị Tvề tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Đặng Thị T đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Bị cáo có ông ngoại là Trần Văn T là Liệt sỹ và được tặng huy chương kháng chiến hạng Nhất nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được trở về với xã hội làm ăn lương thiện.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày lời luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội và xét bị cáo không có nghề nghiệp thu nhập ổn định nên đề nghị miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 niêm phong bằng bì thư có dấu niêm phong số 426/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật hình sự-Công an thành phố Hải Phòng bên trong chứa chất ma túy thu giữ của bị cáo còn lại sau giám định.

- Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, bị cáo phải án chịu 200.000 đồng án phi hin h sư sơ thâm theo quy đinh cua phap luât.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải An, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về nhận định các tình tiết của vụ án:

[2] Về tội danh: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của những người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 16 giờ 00 phút, ngày 06/8/2019, tại ngõ trước cửa nhà số 83/90 đường Trung Lực, tổ dân phố An Khê 1, phường Đằng Lâm, quận Hải An, thành phố Hải Phòng, Đặng Thị T đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,9953 gam Methamphetamine với mục đích để sử dụng cho bản thân. Đây là chất ma túy nằm trong danh mục II , STT: 323 của Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ. Đặng Thị T là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nên hành vi đó của bị cáo đã phạm vào tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" vi phạm Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Căn cứ vào khối lượng ma túy bị cáo cất giấu, xác định hành vi của bị cáo đã phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận Hải An, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, do vậy cần phải được xử lý nghiêm và cần buôc bi cao phải cách ly xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không co tinh tiêt tăng năng trach nhiêm hinh sư theo quy đinh tai Điêu 52 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên toà và trong quá trình điều tra, truy tố, bị cáo thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải; bị cáo có ông ngoại là Trần Văn T là Liệt sỹ và được tặng huy chương kháng chiến hạng Nhất. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2, Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[7] Về nhân thân: Bị cáo chưa có tiền án; tiền sự. Nhưng bi cáo là đối tượng nghiện chất ma túy. Do vậy, cần phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục nghiêm khắc đối với bị cáo.

[8] Về hình phạt chính: Trên cơ sở đánh giá đầy đủ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây nên, căn cứ quy định pháp luật hình sự, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân, Hôi đông xét xử thấy cần xử phạt bị cáo mức hình phạt tù thích hợp mới đảm bảo mục đích nhằm trừng trị, giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới và giáo dục người khác tôn trọng pháp luật.

[9] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có việc làm ổn định và không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Về xử lý vật chứng: Xét 01 phong bì thư có dấu niêm phong số 426/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hải Phòng bên trong đưng chât ma tuy phân còn lại sau giám định là chất mà Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với 01 điện thoại di động màu vàng đen mặt sau có chữ VERTU đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đen đã qua sử dụng; 01 chứng minh thư nhân dân mang tên Đặng Thị T và số tiền 4.600.000đồng. Tại giai đoạn điều tra, Cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Nguyễn Sỹ H là chồng của bị cáo (theo sự ủy quyền của bị cáo) là có căn cứ theo điểm b khoản 3, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử chấp nhận.

[11] Đối với người thanh niên mua ma túy hộ T ở đường tàu Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, Hải Phòng, tài liệu điều tra chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên chưa đủ căn cứ để xem xét xử lý là phù hợp quy định của pháp luật.

[12] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt Đặng Thị T 30 tháng tù vê tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 06/8/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư niêm phong số 426/2019/PC09 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an thành phố Hải Phòng (theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/11/2019 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hải An và Chi cục Thi hành án dân sự quận Hai An, thành phố Hải Phòng).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, Buôc Đặng Thị T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cư Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 33/2019/HS-ST ngày 28/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:33/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hải An - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;